Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Rước họa vì tự “nạp” thuốc giảm đau khớp

Để "chữa cháy", nhiều bệnh nhân mắc bệnh xương khớp đã tự ý dùng thuốc chống viêm, giảm đau tức thì. Tuy nhiên, không ít người đã ôm hận vì tác dụng phụ nguy hại của các loại thuốc này.

Lợi bất cập hại
Sau khi bác sĩ chẩn đoán mắc bệnh thoái hóa khớp, ông Nguyễn Văn Hợp (ở Đống Đa, Hà Nội) được kê đơn thuốc về nhà uống. "Khi uống thuốc thấy bệnh có thuyên giảm, nhưng mấy tháng sau "trở trời" bệnh lại tái phát", ông kể. Ông Hợp mua hai loại thuốc giảm đau và chống viêm ở hiệu thuốc về uống. Ít lâu sau, khi bệnh khớp có giảm đi chút ít thì ông bị bệnh loét dạ dày. 
Tương tự, không chịu đựng cơn đau do bệnh thấp khớp hành hạ, anh Trịnh Sơn (46 tuổi, ở Từ Liêm, Hà Nội) mua thuốc giảm đau về uống. Một thời gian tự ý dùng thuốc, anh Sơn bị viêm dạ dày và men gan tăng cao bất thường.
PGS.TS.BS Lê Anh Thư - Phó chủ tịch Hội Thấp khớp học VN - cho biết: "Các thuốc chống viêm, giảm đau tức thì là một biện pháp điều trị quan trọng và hữu hiệu trong các bệnh lý cơ - xương - khớp. Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp lâu dài và gây nhiều biến chứng". Theo bác sĩ, nếu có chỉ định tiêm corticosteroid thì cũng cần có kỹ năng chứ không phải ai cũng tiêm được vì dễ xảy ra các biến chứng như canxi hóa bao khớp, nhiễm trùng, đứt gân, teo da, teo mỡ, thậm chí tử vong sau tiêm…
BS Anh Thư cho biết thêm, sau tuổi 40, nhóm bệnh viêm khớp tăng cao nhất trong các bệnh lý của con người, hơn cả tim mạch và ung thư. Đặc biệt, thoái hóa khớp chiếm đến 50% trong nhóm bệnh viêm khớp. 
Tại Việt Nam, tỉ lệ người thoái hóa khớp trên 35 tuổi là 30%, trên 65 tuổi là 60% và trên 80 tuổi lên đến 85%. "Thực trạng đáng lo ngại là những người có vấn đề về cơ, xương hay khớp ở Việt Nam thường không chủ động đến gặp bác sĩ chuyên khoa mà tự ý điều trị, sử dụng tùy tiện thuốc chống viêm, giảm đau thông thường", bác sĩ Thư cho biết.
Điều trị "trúng đích" và an toàn
GS-TS-BS Trần Ngọc Ân - Chủ tịch Hội Thấp khớp học VN - nhận định, xu hướng điều trị bệnh khớp cần ngày càng phải trúng đích và an toàn, không thể sử dụng lâu dài các biện pháp điều trị toàn thân trong khi tình trạng viêm, đau chỉ khu trú ở một vài vị trí. Theo đó, thuốc sinh học và điều trị từ gốc được xem là bước tiến bộ quan trọng và là cuộc cách mạng trong phòng cũng như điều trị thoái hóa khớp, các loại viêm khớp.
Các thuốc sinh học có mặt tại VN trong thời gian gần đây đã mang đến những tiến bộ trong việc điều trị và hỗ trợ điều trị các bệnh khớp, điển hình là dưỡng chất sinh học UC-II (collagen tuýp 2 không biến tính), khi sử dụng bằng đường uống sẽ cung cấp axít amin collagen tuýp 2 trực tiếp cho sụn, điều chỉnh đáp ứng miễn dịch tại khớp thông qua hoạt động của các tế bào T giúp cơ thể nhận biết và bảo vệ mô sụn, đồng thời làm giảm đáng kể lượng các cytokine gây viêm nên có hiệu quả giảm sưng đau khớp.
"Các thuốc chống viêm, giảm đau tức thì là một biện pháp điều trị quan trọng và hữu hiệu trong các bệnh lý cơ - xương - khớp. Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp lâu dài và gây nhiều biến chứng", PGS.TS.BS Lê Anh Thư - Phó Chủ tịch Hội Thấp khớp học VN - nói.


Các loại vitamin quan trọng mẹ bầu cần bổ sung khi mang thai

Việc bổ sung các vitamin cho cơ thể trở nên đặc biệt quan trọng trong giai đoạn bạn mang thai để đảm bảo cho sự phát triển khỏe mạnh của em bé. Dưới đây là một số loại vitamin mà mẹ bầu cần đặc biệt lưu ý và vai trò của nó đối với sức khỏe của cả mẹ và con trong giai đoạn mang thai.
Các loại vitamin quan trọng mẹ bầu cần bổ sung khi mang thai 1
Theo Trí thức trẻ


Đừng tin vitamin C chữa khỏi cảm lạnh

Xưa nay, nhiều người quan niệm dùng vitamin C để trị cảm lạnh. Song trên thực tế, chưa có nghiên cứu nào khẳng định điều đó.

vitamin c
Cảm lạnh là một bệnh thường gặp mỗi khi thay đổi thời tiết. Các triệu chứng thường gặp là chảy mũi, nghẹt mũi, ho hoặc hắt hơi. Những triệu chứng này thường đi kèm với đau cơ, mỏi mệt, nhức mỏi, khó chịu, nhức đầu, chán ăn. Người bị cảm lạnh có thể sốt kéo dài trong 7-10 ngày, thậm chí tới vài tuần.
Cảm lạnh thông thường là căn bệnh truyền nhiễm thường gặp nhất ở người. Bệnh không quá nguy hiểm, thường có thể tự khỏi kể cả khi không dùng thuốc. Nhiều người được khuyên dùng vitamin C để chữa khỏi bệnh cảm lạnh thông thường. Tuy nhiên, theo An Ninh Thủ Đô, chưa có một kết luận nào về sức mạnh nào của vitamin C với bệnh cảm lạnh.
Dưới đây là những sự thật thú vị về mối liên quan giữa vitamin C và cảm lạnh thông thường:
1. Nghiên cứu không xác định được mối liên quan giữa dùng vitamin C và chữa bệnh cảm lạnh thông thường
Đã có rất nhiều nghiên cứu về mối liên quan này nhưng chưa đưa ra được kết luận cuối cùng. Không ai có thể đảm bảo chắc chắn việc dùng liều cao vitamin C có thể thực sự chữa cảm lạnh. Có thể vitamin C giúp rút ngắn thời gian bị cảm lạnh, nhưng điều đó không đúng với tất cả mọi người.
2. Bổ sung vitamin C qua thực phẩm
Nếu bạn đang định dùng vitamin C để chữa cảm lạnh hoặc tăng cường hệ miễn dịch, hãy bổ sung nó qua thực phẩm hàng ngày chứ không phải các chế phẩm bổ sung.
Vitamin C có tự nhiên trong các thực phẩm sau: trái cây và nước ép trái cây họ cam quýt , ớt xanh và ớt đỏ, dâu tây, cà chua, súp lơ xanh, rau lá xanh đậm, khoai lang, khoai tây, dưa đỏ, quả mâm xôi, quả việt quất và nam việt quất, dưa hấu, dứa và bắp cải.
3. Bổ sung vitamin C không phải không có lợi
Liều dùng vitamin C khuyến nghị hàng ngày là 90mg ở nam và 75mg ở nữ. Dùng nhiều hơn liều khuyến nghị hoặc Ahơn 500mg/ngày để chữa cảm lạnh không có lợi vì cơ thể bạn thực sự không thể dung nạp hết. Những người có vấn đề về thận cũng không nên dùng quá nhiều vitamin C. Dùng quá nhiều vitamin C có thể gây tiêu chảy và khởi phát bệnh dạ dày.
Theo nhiều nghiên cứu, bạn có thể không chữa khỏi cảm lạnh với liều cao vitamin C nhưng cũng không nên vì thế mà ngừng ăn các loại thực phẩm giàu vitamin C vì nó có thể giúp bạn hấp thu sắt và dù có chữa được cảm lạnh hay không, vitamin C cũng giúp tăng cường hệ miễn dịch của bạn.



Vắcxin là “vũ khí” để phòng ngừa một số ung thư

Có khoảng 1/5 số người mắc ung thư trên thế giới là do các tác nhân gây nhiễm như: virút, vi khuẩn và ký sinh trùng. Các vắcxin là “vũ khí” hữu hiệu để phòng ngừa một số ung thư. Xung quanh vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với GS.BS Nguyễn Chấn Hùng - Chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam.
Thưa giáo sư, xin giáo sư cho biết tình trạng ung thư tại TPHCM?
Đã có sự gia tăng ung thư tại TPHCM trong giai đoạn 2008 - 2012. Thống kế cho thấy, trong giai đoạn này chỉ riêng dân số của TPHCM đã có 34.581 trường hợp ung thư mới được phát hiện. Ở nam giới, các ung thư đứng hàng đầu là phổi, gan đại - trực tràng, dạ dày và vòm hầu. Ở nữ giới, các ung thư đứng hàng đầu là vú, cổ tử cung, đại - trực tràng, phổi và tuyến giáp. 
Các ung thư hàng đầu ở cả nam và nữ đều tăng nhanh sau 40 tuổi. Đáng lưu ý, có 5.036 trường hợp mới mắc ung thư cổ tử cung qua khảo sát 5 tỉnh thành gồm Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Phòng, Cần Thơ và TPHCM. Ước tính tại Việt Nam số ca mắc ung thư cổ tử cung vào khoảng 5.700ca/năm.
Nhiễm trùng do một số virút, vi khuẩn là yếu tố nguy cơ của ung thư. Giáo sư có thể cho biết, mối liên quan giữa ung thư và bệnh nhiễm?
Ung thư đầu tiên liên hệ với bệnh nhiễm được phát hiện ở châu Phi nhờ các công trình của Denis Burkitt vào năm 1958 về một loại lymphô đặc biệt thấy ở các trẻ em. Tám năm sau, Epstein và Barr tìm thấy virút trong các tế bào của lymphôm Burkitt. Virút này mang tên Virút Epstein Barr hay EBV.
GS.BS. Nguyễn Chấn Hùng thăm hỏi bệnh nhân
GS.BS Nguyễn Chấn Hùng thăm hỏi bệnh nhân
Nhiễm trùng do một số virút, vi khuẩn và ký sinh trùng được xác nhận là một yếu tố nguy cơ của một số ung thư trên toàn cầu. Có khoảng 1 trên 6 ung thư của con người (16%) là do bệnh nhiễm.
Ung thư cổ tử cung, liên hệ với virút HPV, chiếm 50% các ung thư liên quan bệnh nhiễm ở phụ nữ. Vi khuẩn Helicobacter pylori gây ung thư dạ dày. Các virút viêm gan B (HBV - Hepatitis B virus) và C (HCV - Hepatitis C virus) gây ung thư tế bào gan. 
Ở nam giới, các ung thư gan và dạ dày chiếm 80% các ung thư do bệnh nhiễm. Ngoài ra, các ung thư khác được biết liên hệ bệnh nhiễm gồm một số bệnh bạch cầu và lymphô; ung thư hậu môn, dương vật, âm đạo, âm hộ; lưỡi và họng.
Giáo sư có thể nói rõ hơn cơ chế sinh ung do các tác nhân lây nhiễm?
Các vi sinh vật có thể gây ung thư bằng nhiều cơ chế mà chúng ta chưa hiểu hết. HPV cắt đứt chu kỳ tế bào, khóa tay các protein đè nén bướu như p53 và Rb, giúp sự xáo trộn gen tích lũy để ung thư hình thành. 
H.pylori thì gây ra tình trạng viêm mạn tính, rồi dẫn đến viêm dạ dày mạn tính dạng teo, lâu dần tăng nguy cơ ung thư dạ dày. Đối với HBV và HCV, có vẻ như sự lây nhiễm tự nó tác động ít hơn là sự đáp ứng miễn dịch chống lại nó.
Theo thời gian, tổn thương mô gan sẽ dẫn tới xơ gan, yếu tố nguy cơ của ung thư gan. Nhiều bệnh nhiễm gây ra ung thư, nhưng vì sao chỉ có ở một số người bị nhiễm thì ung thư trổ ra. Phải chăng các gen và các yếu tố khác có thúc đẩy hoặc bảo vệ chống bệnh ung thư ở các cá thể. Còn nhiều điều chúng ta phải học hỏi.
Là chuyên gia hàng đầu, xin giáo sư cho biết làm sao để ngừa các bệnh nhiễm, tránh một số ung thư?
Nhìn chung, phần lớn các ung thư này có thể phòng tránh được nhờ các biện pháp phòng ngừa và/hoặc nhờ các cách điều trị phòng ngừa và điều trị khỏi bệnh nhiễm. 
Tiêm chủng HBV, HPV. Phát hiện sớm các bệnh nhiễm để hạn chế sự lây lan hoặc điều trị bệnh: HBV, HCV, HIV và H.pylori. Điều trị các bệnh lây nhiễm. Phát hiện và điều trị các dạng tiền ung thư: xét nghiệp Pap. Bệnh nhiễm và ung thư cung cấp kiểu mẫu về cơ chế sinh ung, chẩn đoán, điều trị, tầm soát và phòng tránh. 
Xin mượn lời của TS Catherine de Martel thuộc Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu Ung thư (IARC): “Các bệnh nhiễm do vài loại virút, vi khuẩn và ký sinh trùng là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất và có thể phòng ngừa hiệu quả nhất của gánh nặng ung thư toàn cầu… 
Áp dụng các biện pháp y tế cộng đồng hiện có để phòng tránh bệnh nhiễm, tiêm chủng với vắcxin hoặc điều trị kháng chẳng hạn, có thể đem lại hiệu quả vững chắc trong tương lai”. Các bệnh nhiễm phải được quan tâm đúng mức trong chiến lược phòng chống ung thư.

Xin cảm ơn giáo sư về cuộc trao đổi ý nghĩa này!



Vitamin và khoáng chất giúp móng khỏe



Nhiều người thấy móng của mình tự nhiên yếu, dễ gãy, giòn, có nhiều đốm trắng xuất hiện trên bề mặt móng... Tất cả những dấu hiệu này báo hiệu cơ thể bạn đang bị thiếu những vitamin và khoáng chất sau.
Vitamin A: Khi trên móng xuất hiện nhiều đốm trắng, đó là dấu hiệu cơ thể thiếu vitamin A và kẽm. Nhu cầu hàng ngày của vitamin A từ 1 - 2mg.
Vitamin B5: Móng mờ đục và không thẳng đều thường là do không đủ vitamin nhóm B và selen. Nhu cầu hàng ngày vitamin này từ 2 - 5mg.
Vitamin C: Giúp phòng ngừa các bệnh nấm móng. Nhu cầu hàng ngày từ 70 - 150mg.
Vitamin E: Đây là vitamin rất cần thiết cho móng, thiếu vitamin này móng sẽ có vấn đề. Nhu cầu hàng ngày từ 30 - 60mg.
Vitamin PP: Nếu cơ thể đủ vitamin PP thì móng sẽ không bị vàng. Nhu cầu hàng ngày 20 - 50mg.
Sắt: Nếu cơ thể đủ sắt móng sẽ không mềm. Nhu cầu hàng ngày 100 - 200mg.
Canxi: Nguyên tố quan trọng đối với xương, răng và móng. Nhờ đủ canxi đem lại sự cứng rắn, bền bỉ cho các bộ phận này. Sự dung nạp canxi sẽ bị cản trở bởi muối. Hơn nữa, muối sẽ đào thải canxi ra khỏi cơ thể. Vì vậy cần loại bỏ thức mặn ra khỏi thực đơn cũng như các món cay, rán. Nhu cầu hàng ngày 800 - 1.200mg.
Kẽm: Quyết định tốc độ phát triển của móng cũng như điều hòa sự tạo thành protid trong cơ thể.
Silic: Nếu không đủ khoáng chất này móng sẽ mất đi độ dẻo dai. Nhu cầu hàng ngày 20 - 30mg.
Selen: Không đủ selen sẽ dẫn đến những thay đổi nghiêm trọng ở móng, độ mềm mại, thậm chí móng còn bị biến dạng. Nhu cầu hàng ngày 0,02 - 0,15mg.
Lưu huỳnh: Không đủ khoáng chất này làm cho móng bị biến dạng. Nhu cầu hàng ngày 500 - 3.000mg.
Flo: Là khoáng chất rất cần cho răng, xương, tóc và tất nhiên cả móng. Nhờ có flo mà chúng trở nên cứng rắn. Nhu cầu hàng ngày 2 - 3mcg.
Acid béo không no: Không có chúng các vitamin A, E cũng như canxi và vitamin D không hòa tan được để hấp thu vào cơ thể. Nhu cầu hàng ngày 1.000 - 2.500mg.
Để giúp cơ thể có đầy đủ các vitamin giúp móng chắc đẹp cũng như phòng ngừa các bệnh về móng, bạn cần thực hiện chế độ ăn đủ 4 nhóm chất: đạm (thịt, cá, trứng, sữa...); đường (gạo, ngô, khoai, sắn, đậu...); béo: chất béo trong cá và hải sản, dầu thực vật dùng để xào, rán; vitamin và khoáng chất: có nhiều trong rau, củ quả.



Thuốc bổ Glucosamine - Tốt xương hại ruột

Ngỡ là thuốc bổ, dùng càng nhiều càng tốt nên nhiều người chưa thấy giảm cơn đau xương thì đã bị Glucosamine dẫn vào bệnh viện.


Glucosamine
Ngất xỉu vì thuốc bổ
Cách đây một năm, chị Lê Nguyệt Ánh, 35 tuổi ở đường Điện Biên Phủ, Quận 10, TPHCM bị tai nạn xe máy, gãy xương và chụp hình X quang thì thấy bị nứt sụn ở vùng khớp gối phải nằm điều trị 3 tháng liền. 
Bây giờ, thỉnh thoảng khi thời tiết thay đổi, chị vẫn bị đau lại. Bạn bè mách có loại thuốc bổ làm từ vỏ cua và vỏ tôm hùm giúp bổ sung canxi, vitamin đặc biệt có Glucosamine giúp xương khớp chắc khỏe hơn, bảo vệ sụn nên chị hào hứng tìm mua.
Cô bán hàng tươi cười tư vấn "Chị uống đi, sẽ không đau nữa đâu" rồi đưa ra một loạt thuốc chứa cùng biệt dược này. Nhấc lên, đặt xuống, đắn đo một lúc lâu rồi chị đã chọn loại 560.000đ/hộp 250 viên 2 hộp Glucosamine. Uống được hai tháng, chị thấy hiệu quả nên tiếp tục mua thêm với hy vọng "chấm dứt cơn đau hoàn toàn" và đề phòng đau khớp khi lớn tuổi hơn.
Nhưng không lâu sau khi dùng thuốc, chị Ánh thấy mình thường xuyên phải đại tiện, có ngày đi hơn 5 lần, mất sức, hay đầy bụng, trướng bụng, chóng mặt. 
Đến khi chị choáng váng, té ngã ở nhà vệ sinh, gia đình vội vàng đưa chị nhập viện thì mới biết nguyên nhân là từ thuốc bổ chứa Glucosamine. Do chị Ánh đã sử dụng quá nhiều loại thuốc này gây ra sự kích thích quá mức tới hệ thống tiêu hóa và thành dạ dày làm tiêu chảy lâu dẫn tới rối loạn thần kinh.
Không phải cứ nhiều là tốt
Dược sĩ Lê Thị Thanh, Công ty dược IMS Việt Nam, cho biết "Các trường hợp phải vào viện điều trị vì dùng quá liều các loại vitamin, thuốc bổ như trên không phải là hiếm. 
Rất nhiều người lạm dụng vitamin, thuốc bổ với mong muốn sẽ có một sức khoẻ tốt hơn, thông minh hơn, mà không hề biết cơ thể mình thừa hay thiếu chất đó, dẫn tới tình trạng quá tải cho hệ thống tiêu hóa, gây rối loạn tiêu hóa, căng thẳng thần kinh, suy nhược cơ thể.
Thuốc Glucosamine là một hợp chất cấu tạo từ glucose và amino axit glutamine có tác dụng hình thành và sửa chữa sụn. Trong các loại thuốc bổ chứa Glucosamine cũng thường có thêm nhiều vitamin, omega-3 bổ sung calci nên giành bồi bổ cho người mắc bệnh về xương khớp. 
Tuy nhiên tác dụng phụ của Glucosamine là gây tiêu chảy, đổi màu phân hoặc kích thích dạ dày. Do Glucosamine được sản xuất từ vỏ tôm hùm, cua biển nên những người dễ bị dị ứng hải sản cần cẩn thận khi dùng.
Ngoài ra, Glucosamine là hợp chất của đường glucose nên chúng có thể hạn chế khả năng điều trị ở những bệnh nhân tiểu đường vì chúng gây ra nguy cơ tăng đường huyết. Đặc biệt phụ nữ có thai và trẻ em dưới 18 tuổi được nhà sản xuất khuyến cáo là không nên dùng bổ sung Glucosamine.



Những thực phẩm không nên ăn khi uống viên sắt


Ăn nhiều rau quả
Rau quả với hàm lượng lớn vitamin, chất xơ và chất khoáng rất cần thiết cho cơ thể; có tác dụng phòng chống táo bón, các bệnh nhiễm trùng và ung thư. Nhưng ăn nhiều ra quả khi bạn đang uống viên sắt lại mang lại tác dụng ngược.
Ăn nhiều rau quả, hàm lượng chất xơ đưa vào cơ thể lớn sẽ làm giảm hấp thu sắt trong ruột. Lý do là vì sắt bị chất xơ gắn kết tạo thành một phức hợp phân tử lớn, không tan và không thể hấp thu. Càng nhiều chất xơ càng thì càng làm giảm hấp thu sắt.
Vì vậy, lời khuyên cho những người bệnh thiếu máu đang phải uống sắt là hãy giảm rau trong chế độ ăn, nhất là các loại rau nhiều xơ như rau muống, rau cải, rau bắp cải. Hoặc chọn giải pháp uống viên sắt sau khi ăn 4 tiếng đồng hồ. Khi đó chất xơ đã đi khỏi dạ dày và đoạn ruột non.
Ăn đồ cay nóng
Đồ cay nóng sẽ làm tăng tác dụng phụ của viên sắt. Các gia vị cay nóng thường làm tăng hấp thu nước, làm tăng hoạt động của dạ dày, ruột nên chúng ta thường có cảm giác nóng nực và táo bón. Cũng chính vì thế mà bệnh nhân táo bón khi dùng gừng, hạt tiêu sẽ khiến bệnh nặng hơn.
Để hạn chế tình trạng táo bón mà vẫn không làm giảm tác dụng của viên sắt, bạn nên uống nhiều nước, ăn nhiều chuối.
Ăn ngô khi uống viên sắt
Ngô là loại thực phẩm chứa nhiều chất xơ, mà như đã nói ở trên, chất xơ làm giảm hấp thụ sắt. Thế nên nếu dùng chung ngô với viên sắt thì có thể làm giảm số lượng sắt được hấp thu sau khi uống.
Mặt khác, ngô có thể làm giảm độ axit trong dạ dày. Mà nồng độ axit trong dạ dày giảm thì khả năng hấp thu viên sắt cũng giảm. Bởi thế trong thời gian đang uống viên sắt, tốt nhất bạn nên kiêng ăn ngô (dù là ngô luộc hay rang).
Kết hợp cùng thuốc giảm mỡ
Tưởng như chẳng liên quan, nhưng thuốc giảm mỡ có thể tương tác với viên sắt bổ sung làm giảm khả năng hấp thu sắt. Hai loại thuốc giảm cholesterol là cholestyramine và colestipol là hai trong số đó. Nếu sử dụng những thuốc này chung với viên sắt thì chúng có thể làm giảm hấp thu sắt từ 10-15%.
Uống càng nhiều càng tốt
Bạn hoàn toàn có thể bị nhiễm độc sắt nếu dùng quá liều. Với các triệu chứng điển hình như đau bụng, buồn nôn và nôn xuất hiện rất nhanh, chỉ sau khoảng 1-2 giờ sau khi uống. Tiếp theo là nhức đầu, nặng đầu, ý thức giảm và có thể co giật dẫn đến hôn mê, thậm chí đã có những trường hợp tử vong do ngộ độc sắt.
Vì thế mà đừng bao giờ uống vượt quá liều quy định, khoảng 1-2mg/kg/ngày.
Với liều dùng 10mg/kg/ngày các triệu chứng nhiễm độc sẽ xuất hiện; với liều cao đến 20mg/kg/ngày, người dùng phải nhập viện điều trị.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons