Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Bệnh vì… thuốc!

Uống thuốc càng nhiều, dùng thuốc càng thường thì hệ thống phòng vệ càng phải huy động tập trung lực lượng dù chỉ là báo động giả!

Hậu quả là nhiều bệnh khác thừa nước đục thả câu khi sức đề kháng là ngọn đèn trước gió.
Tình trạng lạm dụng thuốc có là mối nguy của sức khỏe cộng đồng ở nước mình hay không? Người bệnh không cần trả lời câu hỏi này vì không thể và cũng không có bổn phận phải trả lời. Người có trách nhiệm giải đáp cho thỏa đáng là ngành y. Nhưng người bệnh có quyền đòi hỏi nhận được câu trả lời chính xác và cụ thể từ những người tự nhận là trong cuộc. Mọi luận cứ khác chỉ là ngụy biện.
Tác dụng khác xa tương tác
Ở nước Đức, vì dùng quá nhiều dược phẩm từ nhiều hãng sản xuất khác nhau nên thầy thuốc cho dù có muốn cũng không thể nào kiểm soát phản ứng tương tác bất ngờ giữa các loại thuốc. Một mặt, các hãng thuốc có muốn cũng không thể thực hiện mô hình xét nghiệm để kiểm định khả năng tương tác của sản phẩm ruột với mấy chục ngàn dược phẩm khác! 
Ở xứ mình còn nhiêu khê hơn nữa vì thầy thuốc cho dù có hết lòng với người bệnh cũng khó lòng trở tay cho kịp nếu người bệnh bên cạnh toa thuốc của bác sĩ này lại dằn túi vài toa của bác sĩ chuyên khoa khác! 
Đó là chưa kể đến trường hợp thầy thuốc làm đúng hết, kiểm soát toa thuốc trước sau đàng hoàng nhưng không ngờ bệnh nhân uống thêm vài thứ thuốc tự mua sau khi xem quảng cáo vô tội vạ trên truyền hình, trên báo chí! 
Nếu ở Đức, hầu như ngày nào cũng có thêm vài loại thuốc mới thì vận tốc chào hàng thực phẩm chức năng bên mình đã qua mặt từ lâu! Ai cấm nổi bệnh nhân cố tìm đâu đó một chút hy vọng? 
Nước Đức đã có lần xôn xao vì chuyện một bệnh nhân mất mạng sau khi nhỏ mắt theo đúng toa thuốc của một bác sĩ nhãn khoa, chẳng qua vì trong thuốc nhỏ có hoạt chất ảnh hưởng trên huyết áp thuộc nhóm “chẹn beta”, trong khi bệnh nhân đang uống thuốc hạ huyết áp, cũng “chẹn beta” theo y lệnh của bác sĩ tim mạch! Hậu quả là hai lần “chẹn beta” dẫn đến chẹn gì đó mà tim ngừng đập!
Thầy thuốc cho dù có hết lòng với người bệnh cũng khó lòng trở tay cho kịp nếu người bệnh bên cạnh toa thuốc của bác sĩ này lại dằn túi vài toa của bác sĩ chuyên khoa khác.
Hao thuốc hao tài!
Không kể đến kinh phí hơn 500 triệu euro phải mất hằng năm vì chi phí điều trị nội trú, cũng không kể đến gánh nặng điều trị ngoại trú triền miên cho số bệnh nhân mất tiền vì thuốc rồi mang tật, đứng trước thực tế là số bệnh nhân tử vong hằng năm ở Đức vì phản ứng tương tác bất lợi giữa dược phẩm cao gấp đôi số nạn nhân mất mạng vì tai nạn giao thông, liên đoàn dược phòng ở Đức đã mạnh dạn vận động mọi người tìm cách giới hạn mức độ nguy hại của việc lạm dụng thuốc bằng một số biện pháp cụ thể như:
- Nhờ bác sĩ gia đình kiểm soát phác đồ điều trị chuyên khoa.
- Chú trọng chức năng tư vấn của nhà thuốc, đồng thời với giải pháp thống kê vi tính tất cả dữ liệu có liên quan đến thói quen dùng thuốc của mỗi bệnh nhân.
- Tăng cường chương trình thông tin giáo dục y tế trên phương tiện truyền thông đại chúng.
- Giới hạn việc lạm dụng liệu pháp đặc hiệu thông qua biện pháp hội chẩn bắt buộc của các thầy thuốc chuyên khoa.
Trông người mà ngẫm đến ta
Đó là chuyện của xứ người. Trở lại với quê nhà. Nước Đức là một quốc gia đã có cấu trúc của ngành y tế đi vào ổn định. Điều đó không có nghĩa là mặt trăng ở Đức tròn hơn mặt trăng bên mình. Điều đó cũng không có nghĩa là biện pháp áp dụng ở nước người không phù hợp với bối cảnh ở xứ mình. Điều đó càng không có nghĩa là vấn đề ở xứ khác không ăn nhằm gì hết với nước ta. Thử hỏi hiện nay:
- Có bao nhiêu người bệnh bên mình tự động mua thuốc mà không cần ý kiến của thầy thuốc?
- Có bao nhiêu người bệnh bên ta đang được điều trị bởi nhiều thầy thuốc chuyên khoa không hề hội ý với nhau?
- Có bao nhiêu người bệnh chưa bao giờ được tư vấn về tác dụng phụ ở nhà thuốc, hay đó chỉ là nơi thuận mua vừa bán?
Già néo sớm đứt dây
Nếu thuốc vào rồi lại ra sau khi để lại tác dụng giúp người uống thuốc hết bệnh thì mọi chuyện êm đẹp như đoạn cuối câu chuyện thần tiên. Kẹt là thuốc nào cũng thế, nội địa hay ngoại nhập cũng vậy, hóa chất tổng hợp hay hoạt chất thiên nhiên cũng thế, đều là chất lạ với cơ thể. Hệ miễn nhiễm do đó phải thủ thế tập trận mỗi lần gia chủ uống thuốc.
Bên cạnh đó, tất cả phế phẩm từ tiến trình biến dưỡng thuốc đều ít nhiều là độc chất đối với cơ thể. Các loại dược phẩm kháng viêm có corticoid, thuốc chống cảm giác đói, thuốc chứa nội tiết tố, thuốc hạ áp thuộc nhóm chẹn beta, thuốc lợi tiểu, thuốc dãn phế quản… là lý do hàng đầu khiến người bệnh mãn tính đồng thời là nạn nhân của thuốc.




Thuốc điều trị xuất tinh ra máu

Xuất tinh ra máu là tình trạng có máu lẫn trong tinh dịch khi xuất tinh, đái máu sau khi xuất tinh. Đây là bệnh ở nam giới và cần được điều trị dứt điểm để không ảnh hưởng tới đời sống tình dục và khả năng sinh sản.
Phần lớn các trường hợp xuất tinh ra máu là lành tính (trừ trường hợp do nguyên nhân ung thư). Nếu được tư vấn và điều trị đúng, bệnh có thể khỏi hoàn toàn và không ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như không gây tâm lý hoang mang sau mỗi lần giao hợp.
Ngoài triệu chứng nhìn thấy máu trong tinh dịch, khi bị xuất tinh ra máu thì bệnh nhân có thể gặp phải một số triệu chứng như: tiểu buốt, đau khi đi tiểu, có lẫn máu trong nước tiểu, đau khi xuất tinh, sưng hoặc đau đớn khu vực trên cơ quan sinh dục, sốt nhẹ, đau lưng dưới, đau bụng dưới, đau, sưng ở vùng tinh hoàn, bìu, đau, sưng ở vùng bẹn.
Thuốc điều trị xuất tinh ra máu
Ung thư tuyến tiền liệt dễ gây xuất tinh ra máu
Xuất tinh ra máu, vì sao?
Nguyên nhân hay gặp gây xuất tinh ra máu là do lao túi tinh. Hiện nay, vấn đề lao đường sinh dục vẫn chưa được quan tâm đúng mức do đó nhiều trường hợp bệnh nhân bị xuất tinh ra máu đã không được điều trị ở những cơ sở chuyên khoa thích hợp.
Các loại ung thư thường gặp như: ung thư tuyến tiền liệt, ung thư đường dẫn tinh, ung thư tinh hoàn, u lympho... dễ gây xuất tinh ra máu.
Viêm nhiễm là một trong các nguyên nhân thường gặp nhất gây xuất tinh ra máu như: viêm túi tinh, viêm đường dẫn tinh, viêm tuyến tiền liệt, viêm niệu đạo, viêm mào tinh hoàn - tinh hoàn... 
Trong đó, các viêm nhiễm ở túi tinh được coi là nguyên nhân hàng đầu của xuất tinh ra máu chiếm khoảng 40% các trường hợp. Các nguyên nhân gây viêm thường là nhiễm khuẩn, chấn thương, canxi hóa tuyến tiền liệt. Vi khuẩn gây viêm thường gặp là Enterrobacteria, Chlamydia, một số vi khuẩn gram dương, trực khuẩn lao và một số loại virut.
Ngoài ra, xuất tinh ra máu còn có thể do sỏi túi tinh, giãn tĩnh mạch thừng tinh, thói quen sinh hoạt tình dục (kìm hãm xuất tinh), bệnh ưa chảy máu, xơ gan, viêm gan...
Điều trị xuất tinh ra máu
Lựa chọn thuốc điều trị xuất tinh ra máu cần căn cứ vào 3 nguyên nhân chủ yếu: do ung thư tuyến tiền liệt, do lao túi tinh, do nhiễm khuẩn. Tùy theo nguyên nhân gây bệnh thầy thuốc sẽ lựa chọn thuốc điều trị phù hợp.
Xuất tinh ra máu do ung thư tuyến tiền liệt: điều trị đặc hiệu theo phác đồ điều trị ung thư tuyến tiền liệt theo từng giai đoạn.
Xuất tinh ra máu do lao túi tinh: thời gian dùng thuốc điều trị tối thiểu 9 tháng và phải điều trị liên tục không được tự ý ngưng thuốc kể cả khi đã thấy hết xuất tinh ra máu. Thuốc điều trị chủ yếu là thuốc kháng lao như izoniazid (INH), rifampicin, ethambutol, pyrazinamid. 
Ngoài ra, có thể dùng thuốc chống viêm steroid (prenisolon), thuốc hỗ trợ gan khi dùng thuốc kháng lao kéo dài (nhằm làm giảm các tác dụng không mong muốn của thuốc kháng lao) như các thuốc có chứa hoạt chất biphenyl dimethyl dicarboxylate hoặc xuất xứ từ thảo dược).
Xuất tinh ra máu do nhiễm khuẩn: Trường hợp xuất tinh ra máu có viêm do nhiễm khuẩn thì điều trị kháng sinh theo kháng sinh đồ là lý tưởng nhất. Nếu không có kháng sinh đồ thì nên chọn kháng sinh có phổ tác dụng đối với Enterobacteria, đặc biệt ở người trẻ, thuốc phải có tác dụng với cả Chlamydia. 
Hiện nay, có thể dùng các loại kháng sinh như: nhóm quinolon (levofloxacin, norfloxacin, ciprofloxacin...), nhóm cephalosporin thế hệ 2, 3 (cefuroxim, cefoxitin, cefixim, ceftriaxone, cefotaxime…). 
Ngoài ra có thể thay thế bằng kháng sinh metronidazone, trimethoprim, kết hợp cùng nhóm doxycyclin để điều trị nhiễm Chlamydia kết hợp. Tùy tình trạng bệnh lý mà thời gian dùng thuốc sẽ được bác sĩ chỉ định cho phù hợp nhằm giải quyết triệt để tình trạng viêm nhiễm. 
Ngoài việc dùng kháng sinh, bệnh nhân cần được dùng phối hợp các thuốc chống viêm, giảm phù nề (alpha chymotrypsin…) điều trị trong 2 - 3 tuần và thuốc cầm máu transamin, dùng đường uống hoặc tiêm trong 5 - 10 ngày đầu điều trị. 
Bên cạnh đó có thể dùng thuốc tăng sức bền thành mạch, đó là nhóm thuốc có tác dụng trên tuần hoàn tĩnh mạch như diosmin - hesperidin phối hợp với rutin C cũng có hiệu quả trong điều trị.
Xuất tinh ra máu do nguyên nhân tắc túi tinh, sỏi túi tinh, giãn tĩnh mạch niệu đạo, ung thư... cần can thiệp ngoại khoa.
Lời khuyên dành cho người bệnh
Trong thời gian điều trị, bệnh nhân không được quan hệ tình dục hoặc tự ý xuất tinh ra để kiểm tra, điều đó sẽ làm nặng thêm tình trạng tổn thương mạch máu và khiến bệnh dai dẳng hơn. 

Nên từ bỏ thói quen kìm hãm xuất tinh hay uống bia rượu nhiều trước quan hệ tình dục không chỉ gây ra tình trạng xuất tinh ra máu mà còn là nguyên nhân của một số rối loạn tình dục như xuất tinh muộn, xuất tinh ngược dòng, giao hợp không xuất tinh, giảm ham muốn tình dục,...



Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

Hội chứng ruột kích thích và thuốc trị

Hội chứng ruột kích thích hay còn gọi là hội chứng đại tràng kích thích. Bệnh tuy không ảnh hưởng tới tính mạng nhưng nó làm ảnh hưởng nhiều tới sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân. 
Phần lớn trường hợp mắc hội chứng ruột kích thích không điều trị khỏi hoàn toàn bởi chưa có một thuốc đơn độc nào có hiệu quả với bệnh này. Hiện nay chỉ điều trị theo triệu chứng nổi trội nhằm giúp bệnh nhân dễ chịu hơn mà thôi.
Dấu hiệu nhận biết
Các dấu hiệu của bệnh không giống nhau ở mỗi bệnh nhân và có thể thay đổi theo thời gian. Mỗi triệu chứng có thể gặp riêng lẻ trong các triệu chứng rối loạn chức năng ruột khác. Có thể gặp các triệu chứng như đau bụng, nặng bụng như có khối đá đè trong bụng. 
Triệu chứng này sẽ giảm khi bệnh nhân trung tiện, đại tiện được và đau tăng khi mắc táo bón; Trướng bụng là triệu chứng thường gặp nhất và tăng dần lên trong ngày. 
Các rối loạn nhu động ruột biểu hiện bằng số lần đi cầu, thay đổi mật độ và hình dạng của phân như tiêu chảy hoặc táo bón. Hội chứng ruột kích thích thể tiêu chảy ít gặp hơn thể táo bón.
Hội chứng ruột kích thích và thuốc trịĐau bụng là một triệu chứng của hội chứng ruột kích thích
Ngoài ra, bệnh nhân còn có thể có các dấu hiệu như nóng ở thượng vị, buồn nôn, thậm chí có thể gặp các trạng thái về tâm lý như suy sụp, lo lắng...
Thuốc nào giúp bệnh nhân dễ chịu?
Trước hết, khi bị hội chứng ruột kích thích, bệnh nhân cần cải thiện chế độ sinh hoạt như: tạo thói quen đi đại tiện đúng giờ trong ngày, thay đổi chế độ ăn uống hợp lý. Nếu các biện pháp trên không cải thiện thì phải điều trị bằng thuốc. Tùy vào triệu chứng nổi trội của bệnh nhân mà bác sĩ sẽ chỉ định dùng thuốc phù hợp.
Với bệnh nhân bị tiêu chảy thì dùng thuốc chống tiêu chảy loperamid. Đây là một opioid, không qua hàng rào máu não, làm giảm nhu động ruột hoặc diphenoxylate, viên thuốc có chứa diphenoxylate và atropine, điều trị tăng vận động ruột. Thuốc có thể giúp kiểm soát triệu chứng tiêu chảy. Bệnh nhân bị táo bón có thể dùng thuốc forlax hoặc cisapride.
Hội chứng ruột kích thích và thuốc trị​Để giảm các triệu chứng của hội chứng ruột kích thích, cần thực hiện tốt vệ sinh ăn uống. Ảnh: T. M
Ở bệnh nhân mắc hội chứng ruột kích thích, nếu đau là triệu chứng nổi trội thì có thể dùng các thuốc chống co thắt, kháng cholin, các thuốc chống trầm cảm, an thần, các thuốc ức chế kênh canxi, các thuốc điều chỉnh ngưỡng đau. 
Nếu đau sau ăn có thể uống các thuốc dicyclomine, dicycloverine; chống co thắt uống spasmaverine; thuốc kháng cholinergic; pinaverium, thuốc đối kháng Ca ở dạ dày - ruột trimebutine, nospa.
Một số bệnh nhân cần dùng thuốc có ảnh hưởng đến một số hoạt động của hệ thần kinh thực vật để làm giảm co thắt ruột gây đau đớn. Thuốc kháng acetylcholin có thể là hữu ích cho những người có những cơn tiêu chảy, nhưng có thể làm trầm trọng thêm táo bón.
Khi bệnh nhân gặp các triệu chứng bao gồm đau hoặc trầm cảm, bác sĩ có thể cho dùng thuốc chống trầm cảm ba vòng hoặc tái hấp thu serotonin chọn lọc chất ức chế (SSRI). Những thuốc này giúp giảm trầm cảm cũng như ức chế hoạt động của tế bào thần kinh điều khiển ruột. 
Nếu bị tiêu chảy và đau bụng mà không trầm cảm, bác sĩ có thể cho liều thấp hơn so với bình thường thuốc chống trầm cảm ba vòng, chẳng hạn như imipramine và amitriptylin. Tác dụng phụ của các thuốc này bao gồm buồn ngủ và táo bón. Nếu bệnh nhân bị đau và táo bón khiến mệt mỏi và chán nản, có thể dùng thuốc fluoxetine hoặc paroxetin.
Để giảm các triệu chứng, bệnh nhân cần thực hiện chế độ vệ sinh ăn uống. Cần tránh thức ăn làm bệnh tăng như: cà phê, bia, chất xơ, các chế phẩm từ sữa, ăn uống thái quá, nhiều chất béo, tránh sinh hoạt làm việc căng thẳng.


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc chống viêm "kỵ" bà bầu


thuoc-mang-bau
Dùng thuốc chống viêm khi bị viêm đau xương khớp, chấn thương, bong gân hay đơn giản là sốt cao do viêm hay nhiễm trùng là điều hoàn toàn phù hợp. Nhưng khi bạn có bầu thì khác, hãy thận trọng vì không phải tất cả chúng đều an toàn.
1. Gây quái thai
Trong các loại thuốc chống viêm thì Phenylbutazone là nhóm đáng nghi ngại nhất về vấn đề này. Người ta đã thử nghiệm trên động vật và thấy rằng, Phenylbutazone và các sản phẩm cùng dòng có thể gây ra quái thai cho thai nhi. Mặc dù là chưa có bằng chứng chính thức trên người nhưng người ta mạnh mẽ khuyến cáo không nên sử dụng thuốc này trong 3 tháng đầu tiên của thai kỳ.
2. Ức chế co bóp tử cung và gây khó đẻ
Indomethacin và Aspirin là hai loại thuốc chống viêm rất "kỵ" bà bầu. Đặc biệt với Indomethacin, giới chuyên môn đã tìm thấy những bằng chứng chắc chắn và cơ chế rõ ràng gây ra hiện tượng ức chế co bóp tử cung, gây khó đẻ ở loại thuốc này.
Cả hai thuốc này ức chế quá trình tổng hợp prostaglandin trong cơ thể. Thiếu hụt prostaglandin, cơ tử cung bị "đờ" ra và làm kéo dài cuộc chuyển dạ, việc sinh nở trên nên khó khăn hơn và kéo dài hơn.
Thường thì những bà mẹ dùng những thuốc này trong 3 tháng cuối của thai kỳ sẽ phải tiêm thêm thuốc trợ đẻ, hay còn gọi là thuốc kích thích co bóp tử cung oxytocin.
3. Tăng áp động mạch phổi
Bên cạnh nguy cơ gây khó đẻ thì Indomethacin, Aspirin còn có thể gây tăng áp động mạch phổi.
Indomethacin là thuốc chống viêm liên quan nhiều đến sự ức chế tổng hợp prostaglandin. Mà chất prostaglandin trong thai nhi càng thấp thì ống thông động mạch đóng càng sớm, càng làm tăng áp động mạch phổi.
Vì vậy, nếu bà mẹ mang thai (nhất là vào cuối thai kỳ) sử dụng Indomethacin có thể đẫn đến tăng áp lực động mạch phổi thai nhi. Kết luận này đã được khẳng định trong công trình nghiên cứu công bố năm 2001 của chuyên gia nghiên cứu về khớp và viêm khớp Ostensen, thuộc BV Đại học Berne, Thụy Sỹ.
4. Làm suy chức năng thận
Suy chức năng thận của thai nhi là một biến chứng có thể thấy ở một số loại thuốc kháng viêm như Indomethacin, Diclofenac, Nimesulide... Mặc dù cơ chế còn chưa rõ nhưng bằng những quan sát trên siêu âm và đo thể tích dịch ối người ta thấy khi dùng các thuốc này, mức độ tạo ra nước tiểu của thai nhi giảm hẳn.
Mức độ gây hại cho thận liên quan đến liều lượng thuốc sử dụng, thời gian sử dụng và thời điểm sử dụng. Nhìn chung dùng liều càng cao, thời gian dùng càng kéo dài (trên 4 tuần) và càng gần thời kỳ cuối của thai nhi thì mức độ gây hại càng nặng và thận của trẻ em càng khó phục hồi.
Chuyên gia nghiên cứu dược lý học Cuzzolin, Đại học Verona, Italy đã theo dõi những bà mẹ đã dùng Indomethacin ở thời kỳ cuối của giai đoạn mang thai thấy chức nặng thận của đứa trẻ không thể phục hồi vào những thời gian phát triển sau.
5. Thuốc gây chảy máu tử cung
Aspirin là thuốc điển hình gây ra tác dụng này. Aspirin được khuyên không nên dùng ở thai kỳ vì người ta nghi ngại tác dụng phụ của thuốc là ức chế co bóp tử cung sau đẻ và ức chế ngưng tập tiểu cầu. Đây thực sự là một mối lo lắng hàng đầu vì nó quyết định đến sinh mạng của người mẹ.
Cần biết, sau khi đẻ, tử cung chỉ có hai cơ chế cầm máu duy nhất là co rút khối cơ tử cung để thít chặt mạch máu và kết dính tiểu cầu khởi động quá trình tạo cục máu đông. Cả hai cơ chế quan trọng nhất trên đều bị phá hại bởi Aspirin. Vì vậy mà rất nguy hiểm cho mẹ sau sinh. Thậm chí, mức độ nặng còn có thể gây tử vong.
Bên cạnh đó là tác hại rất lớn trên thai nhi. Chuyện chuyển dạ gây sang chấn cơ học cho thai nhi là chuyện bình thường. Nếu dùng Aspirin ở bà mẹ thì sẽ gây ra tăng nguy cơ chảy máu cho con do những chấn thương trong chuyển dạ. Rất có thể con bạn sẽ bị máu tụ bầm ở mặt, thân mình hay chảy máu nội sọ.



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc bổ Glucosamine - Tốt xương hại ruột

Ngỡ là thuốc bổ, dùng càng nhiều càng tốt nên nhiều người chưa thấy giảm cơn đau xương thì đã bị Glucosamine dẫn vào bệnh viện.

Glucosamine
Ngất xỉu vì thuốc bổ
Cách đây một năm, chị Lê Nguyệt Ánh, 35 tuổi ở đường Điện Biên Phủ, Quận 10, TPHCM bị tai nạn xe máy, gãy xương và chụp hình X quang thì thấy bị nứt sụn ở vùng khớp gối phải nằm điều trị 3 tháng liền. 
Bây giờ, thỉnh thoảng khi thời tiết thay đổi, chị vẫn bị đau lại. Bạn bè mách có loại thuốc bổ làm từ vỏ cua và vỏ tôm hùm giúp bổ sung canxi, vitamin đặc biệt có Glucosamine giúp xương khớp chắc khỏe hơn, bảo vệ sụn nên chị hào hứng tìm mua.
Cô bán hàng tươi cười tư vấn "Chị uống đi, sẽ không đau nữa đâu" rồi đưa ra một loạt thuốc chứa cùng biệt dược này. Nhấc lên, đặt xuống, đắn đo một lúc lâu rồi chị đã chọn loại 560.000đ/hộp 250 viên 2 hộp Glucosamine. Uống được hai tháng, chị thấy hiệu quả nên tiếp tục mua thêm với hy vọng "chấm dứt cơn đau hoàn toàn" và đề phòng đau khớp khi lớn tuổi hơn.
Nhưng không lâu sau khi dùng thuốc, chị Ánh thấy mình thường xuyên phải đại tiện, có ngày đi hơn 5 lần, mất sức, hay đầy bụng, trướng bụng, chóng mặt. 
Đến khi chị choáng váng, té ngã ở nhà vệ sinh, gia đình vội vàng đưa chị nhập viện thì mới biết nguyên nhân là từ thuốc bổ chứa Glucosamine. Do chị Ánh đã sử dụng quá nhiều loại thuốc này gây ra sự kích thích quá mức tới hệ thống tiêu hóa và thành dạ dày làm tiêu chảy lâu dẫn tới rối loạn thần kinh.
Không phải cứ nhiều là tốt
Dược sĩ Lê Thị Thanh, Công ty dược IMS Việt Nam, cho biết "Các trường hợp phải vào viện điều trị vì dùng quá liều các loại vitamin, thuốc bổ như trên không phải là hiếm. 
Rất nhiều người lạm dụng vitamin, thuốc bổ với mong muốn sẽ có một sức khoẻ tốt hơn, thông minh hơn, mà không hề biết cơ thể mình thừa hay thiếu chất đó, dẫn tới tình trạng quá tải cho hệ thống tiêu hóa, gây rối loạn tiêu hóa, căng thẳng thần kinh, suy nhược cơ thể.
Thuốc Glucosamine là một hợp chất cấu tạo từ glucose và amino axit glutamine có tác dụng hình thành và sửa chữa sụn. Trong các loại thuốc bổ chứa Glucosamine cũng thường có thêm nhiều vitamin, omega-3 bổ sung calci nên giành bồi bổ cho người mắc bệnh về xương khớp. 
Tuy nhiên tác dụng phụ của Glucosamine là gây tiêu chảy, đổi màu phân hoặc kích thích dạ dày. Do Glucosamine được sản xuất từ vỏ tôm hùm, cua biển nên những người dễ bị dị ứng hải sản cần cẩn thận khi dùng.
Ngoài ra, Glucosamine là hợp chất của đường glucose nên chúng có thể hạn chế khả năng điều trị ở những bệnh nhân tiểu đường vì chúng gây ra nguy cơ tăng đường huyết. Đặc biệt phụ nữ có thai và trẻ em dưới 18 tuổi được nhà sản xuất khuyến cáo là không nên dùng bổ sung Glucosamine.



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Những thực phẩm không nên ăn khi uống viên sắt

Ăn nhiều rau quả
Rau quả với hàm lượng lớn vitamin, chất xơ và chất khoáng rất cần thiết cho cơ thể; có tác dụng phòng chống táo bón, các bệnh nhiễm trùng và ung thư. Nhưng ăn nhiều ra quả khi bạn đang uống viên sắt lại mang lại tác dụng ngược.
Ăn nhiều rau quả, hàm lượng chất xơ đưa vào cơ thể lớn sẽ làm giảm hấp thu sắt trong ruột. Lý do là vì sắt bị chất xơ gắn kết tạo thành một phức hợp phân tử lớn, không tan và không thể hấp thu. Càng nhiều chất xơ càng thì càng làm giảm hấp thu sắt.
Vì vậy, lời khuyên cho những người bệnh thiếu máu đang phải uống sắt là hãy giảm rau trong chế độ ăn, nhất là các loại rau nhiều xơ như rau muống, rau cải, rau bắp cải. Hoặc chọn giải pháp uống viên sắt sau khi ăn 4 tiếng đồng hồ. Khi đó chất xơ đã đi khỏi dạ dày và đoạn ruột non.
Ăn đồ cay nóng
Đồ cay nóng sẽ làm tăng tác dụng phụ của viên sắt. Các gia vị cay nóng thường làm tăng hấp thu nước, làm tăng hoạt động của dạ dày, ruột nên chúng ta thường có cảm giác nóng nực và táo bón. Cũng chính vì thế mà bệnh nhân táo bón khi dùng gừng, hạt tiêu sẽ khiến bệnh nặng hơn.
Để hạn chế tình trạng táo bón mà vẫn không làm giảm tác dụng của viên sắt, bạn nên uống nhiều nước, ăn nhiều chuối.
Ăn ngô khi uống viên sắt
Ngô là loại thực phẩm chứa nhiều chất xơ, mà như đã nói ở trên, chất xơ làm giảm hấp thụ sắt. Thế nên nếu dùng chung ngô với viên sắt thì có thể làm giảm số lượng sắt được hấp thu sau khi uống.
Mặt khác, ngô có thể làm giảm độ axit trong dạ dày. Mà nồng độ axit trong dạ dày giảm thì khả năng hấp thu viên sắt cũng giảm. Bởi thế trong thời gian đang uống viên sắt, tốt nhất bạn nên kiêng ăn ngô (dù là ngô luộc hay rang).
Kết hợp cùng thuốc giảm mỡ
Tưởng như chẳng liên quan, nhưng thuốc giảm mỡ có thể tương tác với viên sắt bổ sung làm giảm khả năng hấp thu sắt. Hai loại thuốc giảm cholesterol là cholestyramine và colestipol là hai trong số đó. Nếu sử dụng những thuốc này chung với viên sắt thì chúng có thể làm giảm hấp thu sắt từ 10-15%.
Uống càng nhiều càng tốt
Bạn hoàn toàn có thể bị nhiễm độc sắt nếu dùng quá liều. Với các triệu chứng điển hình như đau bụng, buồn nôn và nôn xuất hiện rất nhanh, chỉ sau khoảng 1-2 giờ sau khi uống. Tiếp theo là nhức đầu, nặng đầu, ý thức giảm và có thể co giật dẫn đến hôn mê, thậm chí đã có những trường hợp tử vong do ngộ độc sắt.
Vì thế mà đừng bao giờ uống vượt quá liều quy định, khoảng 1-2mg/kg/ngày.
Với liều dùng 10mg/kg/ngày các triệu chứng nhiễm độc sẽ xuất hiện; với liều cao đến 20mg/kg/ngày, người dùng phải nhập viện điều trị.



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Bệnh vì… thuốc!

Uống thuốc càng nhiều, dùng thuốc càng thường thì hệ thống phòng vệ càng phải huy động tập trung lực lượng dù chỉ là báo động giả!

Hậu quả là nhiều bệnh khác thừa nước đục thả câu khi sức đề kháng là ngọn đèn trước gió.
Tình trạng lạm dụng thuốc có là mối nguy của sức khỏe cộng đồng ở nước mình hay không? Người bệnh không cần trả lời câu hỏi này vì không thể và cũng không có bổn phận phải trả lời. Người có trách nhiệm giải đáp cho thỏa đáng là ngành y. Nhưng người bệnh có quyền đòi hỏi nhận được câu trả lời chính xác và cụ thể từ những người tự nhận là trong cuộc. Mọi luận cứ khác chỉ là ngụy biện.
Tác dụng khác xa tương tác
Ở nước Đức, vì dùng quá nhiều dược phẩm từ nhiều hãng sản xuất khác nhau nên thầy thuốc cho dù có muốn cũng không thể nào kiểm soát phản ứng tương tác bất ngờ giữa các loại thuốc. Một mặt, các hãng thuốc có muốn cũng không thể thực hiện mô hình xét nghiệm để kiểm định khả năng tương tác của sản phẩm ruột với mấy chục ngàn dược phẩm khác! 
Ở xứ mình còn nhiêu khê hơn nữa vì thầy thuốc cho dù có hết lòng với người bệnh cũng khó lòng trở tay cho kịp nếu người bệnh bên cạnh toa thuốc của bác sĩ này lại dằn túi vài toa của bác sĩ chuyên khoa khác! 
Đó là chưa kể đến trường hợp thầy thuốc làm đúng hết, kiểm soát toa thuốc trước sau đàng hoàng nhưng không ngờ bệnh nhân uống thêm vài thứ thuốc tự mua sau khi xem quảng cáo vô tội vạ trên truyền hình, trên báo chí! 
Nếu ở Đức, hầu như ngày nào cũng có thêm vài loại thuốc mới thì vận tốc chào hàng thực phẩm chức năng bên mình đã qua mặt từ lâu! Ai cấm nổi bệnh nhân cố tìm đâu đó một chút hy vọng? 
Nước Đức đã có lần xôn xao vì chuyện một bệnh nhân mất mạng sau khi nhỏ mắt theo đúng toa thuốc của một bác sĩ nhãn khoa, chẳng qua vì trong thuốc nhỏ có hoạt chất ảnh hưởng trên huyết áp thuộc nhóm “chẹn beta”, trong khi bệnh nhân đang uống thuốc hạ huyết áp, cũng “chẹn beta” theo y lệnh của bác sĩ tim mạch! Hậu quả là hai lần “chẹn beta” dẫn đến chẹn gì đó mà tim ngừng đập!
Thầy thuốc cho dù có hết lòng với người bệnh cũng khó lòng trở tay cho kịp nếu người bệnh bên cạnh toa thuốc của bác sĩ này lại dằn túi vài toa của bác sĩ chuyên khoa khác.
Hao thuốc hao tài!
Không kể đến kinh phí hơn 500 triệu euro phải mất hằng năm vì chi phí điều trị nội trú, cũng không kể đến gánh nặng điều trị ngoại trú triền miên cho số bệnh nhân mất tiền vì thuốc rồi mang tật, đứng trước thực tế là số bệnh nhân tử vong hằng năm ở Đức vì phản ứng tương tác bất lợi giữa dược phẩm cao gấp đôi số nạn nhân mất mạng vì tai nạn giao thông, liên đoàn dược phòng ở Đức đã mạnh dạn vận động mọi người tìm cách giới hạn mức độ nguy hại của việc lạm dụng thuốc bằng một số biện pháp cụ thể như:
- Nhờ bác sĩ gia đình kiểm soát phác đồ điều trị chuyên khoa.
- Chú trọng chức năng tư vấn của nhà thuốc, đồng thời với giải pháp thống kê vi tính tất cả dữ liệu có liên quan đến thói quen dùng thuốc của mỗi bệnh nhân.
- Tăng cường chương trình thông tin giáo dục y tế trên phương tiện truyền thông đại chúng.
- Giới hạn việc lạm dụng liệu pháp đặc hiệu thông qua biện pháp hội chẩn bắt buộc của các thầy thuốc chuyên khoa.
Trông người mà ngẫm đến ta
Đó là chuyện của xứ người. Trở lại với quê nhà. Nước Đức là một quốc gia đã có cấu trúc của ngành y tế đi vào ổn định. Điều đó không có nghĩa là mặt trăng ở Đức tròn hơn mặt trăng bên mình. Điều đó cũng không có nghĩa là biện pháp áp dụng ở nước người không phù hợp với bối cảnh ở xứ mình. Điều đó càng không có nghĩa là vấn đề ở xứ khác không ăn nhằm gì hết với nước ta. Thử hỏi hiện nay:
- Có bao nhiêu người bệnh bên mình tự động mua thuốc mà không cần ý kiến của thầy thuốc?
- Có bao nhiêu người bệnh bên ta đang được điều trị bởi nhiều thầy thuốc chuyên khoa không hề hội ý với nhau?
- Có bao nhiêu người bệnh chưa bao giờ được tư vấn về tác dụng phụ ở nhà thuốc, hay đó chỉ là nơi thuận mua vừa bán?
Già néo sớm đứt dây
Nếu thuốc vào rồi lại ra sau khi để lại tác dụng giúp người uống thuốc hết bệnh thì mọi chuyện êm đẹp như đoạn cuối câu chuyện thần tiên. Kẹt là thuốc nào cũng thế, nội địa hay ngoại nhập cũng vậy, hóa chất tổng hợp hay hoạt chất thiên nhiên cũng thế, đều là chất lạ với cơ thể. Hệ miễn nhiễm do đó phải thủ thế tập trận mỗi lần gia chủ uống thuốc.
Bên cạnh đó, tất cả phế phẩm từ tiến trình biến dưỡng thuốc đều ít nhiều là độc chất đối với cơ thể. Các loại dược phẩm kháng viêm có corticoid, thuốc chống cảm giác đói, thuốc chứa nội tiết tố, thuốc hạ áp thuộc nhóm chẹn beta, thuốc lợi tiểu, thuốc dãn phế quản… là lý do hàng đầu khiến người bệnh mãn tính đồng thời là nạn nhân của thuốc.



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons