Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Không dùng tôi khi có bệnh lý tim mạch

Mấy hôm nay, trời đổi gió lạnh hẳn. Chị Nhàn lại trở chứng hắt hơi, sổ mũi. Mỗi khi thay đổi thời tiết là bệnh lại làm khổ chị. Chị tự nhủ: Thôi đành nhờ cái anh triprolidine (pseudoephedrine) vậy.

Anh chàng này chính là tôi, một loại thuốc kháng histamin dùng điều trị dị ứng, như viêm mũi dị ứng (bệnh dị ứng ảnh hưởng đến mũi họng do phấn hoa, bụi... gây nên), mề đay (vết ngứa, đỏ ngoài da). Triprolidine tôi còn dùng điều trị ho, cảm lạnh. Thỉnh thoảng còn được dùng điều trị phòng ngừa phản ứng dị ứng trong truyền máu và phòng ngừa dị ứng với thức ăn.
Ấy thế nhưng cũng xin cảnh báo với các bạn là tuyệt đối không dùng tôi cho những bệnh nhân quá mẫn cảm với thành phần thuốc, đặc biệt với những bệnh nhân có bệnh lý tim mạch, nội tiết hoặc đang dùng IMAO và 2 tuần sau khi dùng thuốc này cũng tuyệt đối không được dùng tôi đâu nhé.
Với một số trường hợp, bệnh nhân cũng thật thận trọng khi dùng tôi, nếu có thì phải hỏi ý kiến thầy thuốc. Chẳng hạn như bệnh nhân bị tăng nhãn áp góc hẹp, hẹp môn vị, phì đại tiền liệt tuyến, tiểu đường, bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ, cường giáp, suy gan, thận; phụ nữ có thai và cho con bú; trẻ dưới 6 tuổi. Bệnh nhân phải tránh uống rượu, lái xe và vận hành máy móc khi dùng thuốc.
Các bạn ạ, người ta cũng đã nhận được nhiều báo cáo về những phản ứng có hại sau khi dùng tôi như: khô miệng, buồn ngủ, rối loạn đồng vận, hạ huyết áp, nhức đầu, hồi hộp, nhịp tim nhanh, đau thượng vị, chán ăn, buồn nôn, nôn, tăng tiết dịch phế quản.
Cũng giống như các anh em thuốc khác, tôi cũng có một số tương tác thuốc mà các bạn cần lưu ý để tránh những hậu quả xấu có thể xảy ra nhé. Tăng huyết áp khi dùng với thuốc giống giao cảm khác (chống trầm cảm 3 vòng, chống sung huyết, chống thèm ăn, kích thích tâm thần, IMAO). Đảo ngược một phần tác dụng thuốc trị tăng huyết áp.
Nhưng chớ vì thế mà các bạn bỏ qua tôi nhé. Các bạn chỉ cần dừng dùng thuốc và báo ngay cho thầy thuốc khi có những triệu chứng khác lạ là được tư vấn và xử lý kịp thời.



Ðiều trị huyết áp thấp, thuốc gì?

Hiện nay, huyết áp thấp là một chứng bệnh khá phổ biến và tỷ lệ người mắc bệnh đang ngày càng gia tăng. Trong khi nhiều người lo sợ vì huyết áp cao thì ngược lại, rất ít người quan tâm tới huyết áp thấp và chứng huyết áp thấp cũng gây những nguy cơ cao cho sức khỏe.
Người bị huyết áp thấp có trị số huyết áp tâm thu dưới 90mmHg và huyết áp tâm trương dưới 60mmHg, hoặc giảm hơn 20mmHg so với trị số huyết áp bình thường trước đó.
Ðiều trị huyết áp thấp, thuốc gì?
​Người huyết áp thấp cần bổ sung thịt nạc, thịt bò, rau quả có màu đỏ
Có hai loại huyết áp thấp: huyết áp thấp tiên phát và huyết áp thấp thứ phát.
Huyết áp thấp tiên phát: là những người có thể trạng đặc biệt từ nhỏ đến lớn huyết áp vẫn thấp mà không hề có triệu chứng hoặc biến chứng ở bộ phận nào trong cơ thể, chỉ khi gắng sức thì thấy chóng mệt.
Huyết áp thấp thứ phát: là huyết áp bình thường nhưng sau đó bị tụt dần xuống tới mức được coi là huyết áp thấp. Thường gặp ở những người suy nhược kéo dài, mắc các bệnh thiểu năng tuần hoàn não, lao, nhiễm khuẩn, nhiễm độc kéo dài, thiếu máu kéo dài, bệnh nội tiết suy tuyến thượng thận, suy tuyến giáp mạn tính.
Huyết áp thấp thường gặp ở những người quá lao lực, thể trạng yếu, suy dinh dưỡng, phụ nữ… Đặc biệt, huyết áp thấp dễ xảy ra ở người bệnh tim mạch, béo phì, tiểu đường… Nguyên nhân gây chứng bệnh này còn có các yếu tố như cuộc sống căng thẳng, môi trường ô nhiễm, lạm dụng độc chất… 
Chính vì thế, huyết áp thấp đã trở thành một trong những căn bệnh thời đại mà nhiều người mắc phải với những triệu chứng: mệt mỏi, lả người, choáng váng, xây xẩm mặt mày, hoa mắt chóng mặt, khó tập trung và dễ nổi cáu, có cảm giác buồn nôn, nặng hơn là có thể ngất xỉu…
Huyết áp thấp dễ gây biến chứng nặng
Huyết áp càng thấp thì khả năng bị mất trí nhớ càng cao, nó gắn liền với bệnh mất trí do Alzheimer gây ra. Những người có mức huyết áp thấp kéo dài liên tục trong 2 năm có khả năng bị mất trí nhớ cao gấp 2 lần. 
Huyết áp hạ quá thấp cũng có thể làm nhịp tim nhanh, gây choáng, ngất. Huyết áp thấp cũng là nguyên nhân gây tai biến mạch máu não. 30% số người nhồi máu não và 25% số người nhồi máu cơ tim là do huyết áp thấp.
Thuốc điều trị bệnh huyết áp thấp
Mục đích điều trị bệnh huyết áp thấp là phải nhanh chóng đưa huyết áp trở về trạng thái bình thường, sau đó duy trì để tránh tái phát. Về phương pháp điều trị, hiện nay chưa có một loại thuốc nào có hiệu quả lâu dài đối với căn bệnh này. 
Hay nói cách khác, thuốc dùng để điều trị hạ huyết áp hiện nay chỉ điều trị triệu chứng. Trong những trường hợp cấp thiết, bác sĩ sẽ kê đơn cho người bệnh một số loại thuốc có tác dụng nâng huyết áp tạm thời như:
Ephedrin: là thuốc giống thần kinh giao cảm có tác dụng trực tiếp và gián tiếp lên các thụ thể adrenergic. Thuốc có tác dụng co mạch, tăng huyết áp do tăng lưu lượng tim và co mạch ngoại vi. 
Tuy nhiên, khi dùng thuốc cần thận trọng vì thuốc kích thích hệ thần kinh trung ương, gây khó ngủ hoặc mất ngủ. Không dùng thuốc quá 7 ngày liên tục, không nên dùng ephedrin cho trẻ dưới 3 tuổi. Người bệnh suy tim, đau thắt ngực, đái tháo đường, cường giáp và người bệnh đang dùng digitalis, người cao tuổi lại càng phải thận trọng hơn khi cần sử dụng ephedrin để tăng huyết áp. 
Dùng ephedrin kéo dài có thể gây quen thuốc và phụ thuộc vào thuốc, nghiện thuốc. Khi dùng có tác dụng co mạch, tăng huyết áp, tăng nhịp tim nên không dùng với các thuốc chống tăng huyết áp. Không nên dùng trong 3 tháng đầu của thai kỳ. Đánh trống ngực là tác dụng phụ thường gặp khi dùng ephedrin. 
Ở người bệnh nhạy cảm, ngay cả với liều thấp, ephedrin cũng có thể gây mất ngủ, lo lắng và lú lẫn, đặc biệt khi dùng đồng thời với cafein. Ephedrin có thể làm tăng đái khó ở người bệnh có phì đại tuyến tiền liệt.
Heptamyl: là thuốc trợ tim mạch, tăng sức bóp của tim, được sử dụng điều trị triệu chứng trong hạ huyết áp tư thế, đặc biệt trong trường hợp do dùng thuốc hướng tâm thần. Thuốc không được dùng cho các trường hợp cường giáp, tăng huyết áp mạn tính. Với các vận động viên, cần hạn chế dùng heptamyl do thuốc có chứa hoạt chất gây kết quả dương tính trong các xét nghiệm kiểm tra sử dụng chất kích thích.
Pantocrin: cồn nước chế từ nhung hươu do Liên Xô trước đây và ngày nay là Nga sản xuất, tác dụng bồi bổ cơ thể, kích thích tim mạch, ống tiêm 1ml tiêm dưới da hoặc tiêm bắp. Hiện nay đã có dung dịch pantocrin dạng uống.
Bioton: Chống suy nhược cơ thể, tăng trí lực, thể lực...
Lưu ý: Khi bị huyết áp thấp, bệnh nhân thường được tư vấn chế độ ăn mặn hơn bình thường và bổ sung thêm các đồ uống có chất kích thích như chè, cafein…
Để hạn chế hạ huyết áp tư thế, bệnh nhân không nên thay đổi tư thế một cách đột ngột từ tư thế thấp sang tư thế cao. Khi có dấu hiệu hoa mắt, chóng mặt, mệt mỏi, cần nằm nghỉ ngơi ở tư thế đầu thấp để tăng lượng máu lên não. 

Luyện tập thể dục đều đặn, phù hợp với sức khỏe và độ tuổi hàng ngày giúp duy trì lưu thông máu trong cơ thể nên giảm chứng huyết áp thấp. Tăng cường dinh dưỡng, ăn uống đủ chất để cung cấp năng lượng cho cơ thể, phòng chống bệnh tật...



Mẹ suýt mất con vì cho trẻ dùng thuốc không đủ liều

Được chỉ định dùng thuốc dự phòng hen 6 tháng, nhưng sau khi dùng 2 tháng thấy con đỡ, phụ huynh nhất định không cho dùng thêm. Hậu quả là cháu bé phải nhập viện trong tình trạng nguy kịch.

Thời gian qua, liên tục xuất hiện nhiều trường hợp trẻ bị hen nặng phải nhập viện, điều đáng nói là lỗi đa phần do người lớn chủ quan.
Thấy con đỡ, bỏ thuốc ngay
Theo thống kê của khoa Miễn dịch - Dị Ứng - Khớp, BV Nhi Trung ương, có tới 60% trường hợp các gia đình sau một thời gian điều trị dự phòng cho con, thấy sức khỏe trẻ ổn định là tự động bỏ thuốc, không đưa con tái khám định kỳ.

Đây là sai lầm thường gặp ở các bậc phụ huynh khiến tình trạng hen của trẻ càng trở nên trầm trọng, thậm chí phải nhập viện cấp cứu do cha mẹ đột ngột ngừng dự phòng.

Điển hình là trường hợp gia đình chị Hà (Hoàng Mai, Hà Nội) đã suýt mất con vì lý do này. Bé Sóc nhà chị Hà được chẩn đoán mắc hen và được chỉ định dùng thuốc dự phòng hàng ngày ít nhất trong 6 tháng. Nhưng mới được hơn 2 tháng, thấy bệnh bé đỡ hẳn nên bà ngoại xót cháu, nhất định không cho dùng thêm thuốc.

Không những thế, chị Hà còn nghe người bạn mách trong thuốc hen có chứa corticoid, dùng lâu dài có thể khiến mặt bị phù, thay đổi nội tiết và liệt kê một loạt các tác dụng phụ nên chị Hà ngưng hẳn việc dự phòng.

Cho đến khi đang đi học, cô giáo gọi điện thông báo bé Sóc phải đi cấp cứu. Vào viện, nhìn con gái bé bỏng vật vã, tím tái, đờ đẫn trong cơn hen, chị Hà không ngừng tự trách bản thân mình: “Nếu không được đưa vào bệnh viện kịp thời, có lẽ mình đã mất con rồi”.

Tương tự trường hợp bé Sóc, bé Minh, con trai chị Uyên (Yên Bái) năm nay mới 7 tuổi nhưng đã có tiền sử 5 năm sống chung với bệnh hen. Thời gian đầu mới điều trị cho con, chị Uyên tuân thủ rất nghiêm ngặt lời căn dặn của bác sĩ.

Tuy nhiên, sau khi dùng thuốc được 6 tháng, phần vì thấy con trai đã ăn ngon, ngủ tốt, phần vì công việc bận rộn, nên chị quên hẳn việc phải đưa Minh đến tái khám định kỳ. Gần đây, khi thời tiết giao mùa, thấy con trai tái phát tình trạng ho, khò khè mỗi đêm, thể trạng lúc nào cũng lờ đờ, mệt mỏi vì mất ngủ chị mới đưa con trở lại phòng khám.

Nếu để kéo dài sẽ không thể phục hồi
Đánh giá về những rường hợp nhập viện do chủ quan trên, ThS.BS Lê Thu Hương - chuyên khoa Miễn dịch - Dị Ứng - Khớp, cho biết các bậc phụ huynh cần hiểu rằng, hen là một bệnh viêm mãn tính đường thở. Ngay cả khi trẻ không có triệu chứng bệnh thì tình trạng viêm nhiễm vẫn diễn ra âm thầm. Nếu không được kiểm soát hen triệt để, trẻ mắc hen với những tổn thương phổi kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng chức năng phổi suy giảm đến mức không thể phục hồi.
Theo BS Hương, việc dự phòng hen không đúng cách vừa ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị, lại khiến chi phí chăm sóc cho bệnh nhân tăng vọt, đặc biệt là khi trẻ phải nhập viện cấp cứu. Nhiều gia đình điều trị dự phòng nhưng không đều đặn vì cho rằng không cần thiết. Bên cạnh đó, các bậc cha mẹ còn lo ngại tác dụng phụ của thuốc hen nếu trẻ phải điều trị kéo dài.
“Các gia đình không hiểu một điều rằng, mỗi một lần con lên cơn, lượng thuốc bé phải dùng sẽ tăng gấp nhiều lần thuốc dự phòng. Thêm vào đó, việc sử dụng thuốc đường uống hoặc đường tiêm để xử trí trẻ lên cơn hen cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác dụng phụ hơn”, BS Hương chia sẻ.

Theo các bác sĩ, hen là một bệnh hoàn toàn có thể kiểm soát được nếu cha mẹ biết hướng con đến lối sống lành mạnh và chăm sóc điều trị trẻ hen đầy đủ, đúng cách.

Dự phòng hen giúp trẻ duy trì chức năng phổi tốt, hạn chế tình trạng trẻ tái cơn cũng như chịu đựng tác dụng phụ của thuốc, từ đó tiết kiệm công sức và chi phí điều trị bệnh.

Bên cạnh đó, cha mẹ cần tránh cho trẻ tiếp xúc với các yếu tố kích thích; tiêm vaccine đầy đủ, đặc biệt là vaccine cúm; tuân thủ đúng kế hoạch điều trị do bác sĩ chuyên khoa tư vấn; sử dụng đúng thuốc được kê đơn, xịt thuốc đúng phương pháp. Tái khám bác sĩ đều đặn để được đánh giá mức độ kiểm soát hen, chức năng phổi, tình trạng viêm, chỉnh thuốc theo tiến triển bệnh.



Bổ sung vitamin đúng cách

Vitamin rất cần thiết cho cơ thể, tuy nhiên việc bổ sung Vitamin không đúng cách sẽ dẫn tới tình trạng thiếu hoặc thừa Vitamin quá mức cần thiết gây tổn hại đến sức khỏe.

Não bộ: Vitamin D
Các nghiên cứu đã chỉ ra, vitamin D giúp cải thiện khả năng hoạt động của não, tăng cường trí nhớ. Phơi nắng là cách đơn giản nhất để cơ thể có được loại vitamin này. Hơn nữa, vitamin D còn giúp giảm nguy cơ ung thư buồng trứng, ung thư ruột kết và tuyến vú.
Cơ thể tự sản sinh ra vitamin D khi da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Vitamin D cũng có trong một số thực phẩm như tôm, sò, cá, trứng, bơ...
Mắt: Vitamin E
Ngoài vitamin A, vitamin E cũng là một dưỡng chất cần thiết cho mắt. Vitamin E là một loại vitamin tan trong chất béo, cũng là một trong những chất chống oxy hóa tốt nhất, có thể ức chế quá trình peroxide hóa lipid trong thủy tinh thể, giúp tránh tình trạng giãn mạch ngoại vi, cải thiện tuần hoàn máu và dự phòng phát sinh, tiến triển bệnh cận thị.
Tim mạch: Axit béo omega-3
Loại axit béo có trong dầu cá có thể làm giảm nồng độ triglyceride (chất làm tăng nguy cơ mắc tiểu đường và bệnh tim). Mỗi ngày uống 1.000mg axit béo omega-3 có thể bảo vệ tim mạch, giúp người mắc bệnh tim giảm nguy cơ bị bệnh mạch vành (còn gọi là thiếu máu cơ tim).
Thận: Vitamin B6
Uống đủ nước là cách tốt nhất để bảo vệ sức khỏe của thận. Mỗi ngày bổ sung 40mg vitamin B6 cũng có thể giảm 60% nguy cơ bị sỏi thận. Vitamin B6 còn là vật chất cần thiết để chuyển hóa đường, chất béo trong cơ thể. Loại vitamin này cũng liên quan tới sự chuyển hóa của estrogen nên có tác dụng phòng tránh một số bệnh phụ khoa.
Vi sinh vật trong đường ruột của người có thể tổng hợp ra vitamin B6, nhưng số lượng này rất ít. Thực tế, lượng cần thiết của vitamin B6 đối với cơ thể liên quan tới lượng protein được tiếp nạp. Chẳng hạn, với người thường ăn nhiều thịt cá thì nên chú ý bổ sung vitamin B6 nhằm tránh bị các bệnh mãn tính do thiếu vitamin này gây nên.
Tuy nhiên, cần chú ý, không bổ sung dư thừa vitamin B6 vì sẽ dẫn tới viêm đa dây thần kinh, giảm trí nhớ.
Gan: Cây cúc gai
Cúc gai được mệnh danh là thần dược bảo vệ gan. Tác dụng của các thuốc chiết xuất từ cây này giúp giảm viêm gan, xơ gan, suy giảm chức năng gan do rượu bia, giúp gan giải độc... Ngoài ra, cây cúc gai còn hỗ trợ kháng oxy hóa, lợi tiểu...
Các dược phẩm có nguồn gốc từ cây cúc gai cần được bác sĩ hướng dẫn trước khi sử dụng.
Xương cốt: Vitamin C
Ngoài việc tăng cường hệ thống miễn dịch, vitamin C còn cần thiết cho việc hình thành xương, khỏe da và chắc răng, cũng như việc sản xuất collagen. Cơ thể thiếu vitamin C sẽ gây ra nhiều bệnh như xuất huyết, loãng xương... 
Vitamin C cũng hỗ trợ phân giải chất béo, thúc đẩy hấp thụ sắt và là một chất chống oxy quan trọng. Tuy nhiên, nếu bổ sung vitamin này quá nhiều sẽ gây loét dạ dày, tá tràng, viêm bàng quang.
Vitamin C có nhiều trong hoa quả, như anh đào, họ cam quýt...



Thuốc chống ói cho bà bầu

Một liều thuốc chống nôn có thể giúp thai phụ vượt qua cơn nghén dễ dàng. Nhưng thuốc chống ói có thực sự là cứu tinh.

Chị Nguyễn Thị Thu (Thanh Xuân Bắc, Hà Nội) mang thai vừa được tháng thì có dấu hiệu nghén nặng. Mỗi ngày chị nôn ói đến 25-30 lần. Triệu chứng nôn ói khiến chị đau bụng, tức ngực. Chị than thở: "Đến mình còn không sống nổi thì em bé làm sao chịu được". 
Chính vì thế chị nghĩ đến việc dùng thuốc chống ói. Nhưng khi thấy chị cầm vỉ thuốc chống ói về thì mẹ chồng và chồng nhất định ngăn cản không cho uống vì sợ ảnh hưởng tới thai nhi. Vậy là cuộc "chiến tranh lạnh" trong gia đình chị bắt đầu. 
Chị hậm hực với chồng: "Anh thử nghén xem anh có chịu nổi không. Thuốc họ bán được cho bà bầu, tức là mình có thể dùng được. Cứ để nôn ói mãi, có khi cả mẹ và con đều nguy".
Hiện tượng nôn ói như chị Thu là rất phổ biến ở các thai phụ. BS Nguyễn Bạch Đằng, Bộ môn tiêu hóa, Học viện Quân y cho hay: "Có tới 90% thai phụ có cảm giác nôn và buồn nôn trong những tháng đầu của thai kỳ, sau đó giảm đi ở tuần thứ 14. 
Nhưng vẫn có một số người bị ói đến tận lúc sinh". Nhiều người vì nôn ói quá mức dẫn tới mất nước, mất dinh dưỡng phải nhập viện để truyền nước. Trên thị trường lại có rất nhiều thuốc chống nôn ói. Vì thế không ít người muốn tìm đến thuốc chống nôn để giải quyết thực trạng.
Cẩn thận lặp lại thảm họa thalidomide
Trước vấn đề thai phụ có thể dùng thuốc chống nôn không, BS Đằng đưa ra nhận định: Một số trường hợp nôn ói nặng, bác sĩ vẫn kê đơn một số thuốc chống nôn thuộc nhóm kháng histamine hoặc domperidon, metoclopramid. Một số loại thuốc thường được kê cho thai phụ là metoclopraimid (primperan), promethazin, prochlorperazin, chlorpromazine.
Mặc dù chưa có nghiên cứu nào về tác hại của các thuốc trên với thai nhi nhưng thực tế các thuốc này vẫn qua được nhau thai và có ảnh hưởng ít nhiều tới bé. Trong trường hợp thai phụ có bệnh dạ dày, viêm tụy, viêm ruột thừa… thì thuốc chống nôn càng gây ra hậu quả xấu với sức khỏe của mẹ.
Khi trao đổi với phóng viên, BS Đằng cũng đã nhắc lại thảm họa về thuốc chống nôn thalidomide. Đã bị cấm dùng từ thập niên 1960 nhưng thảm họa của thalidomide để lại vẫn còn ám ảnh đến tận bây giờ. Những năm 1950, thalidomide ra đời và được thai phụ trên 46 quốc gia tin dùng. 
Thành phần của thuốc có tác dụng an thần mạnh mẽ nên giảm tình trạng nôn. Ở thời điểm đó, thalidomide được xem như là thần dược của phụ nữ có thai. Nhưng y khoa nhận thấy những ca sinh ra bị dị tật lại tăng một cách nhanh chóng. Lúc đó người ta nghi ngờ thalidomide.
Theo ghi nhận của Tổ chức y tế thế giới thì có khoảng 10.000 ca dị tật do phơi nhiễm thalidomide, nặng nề nhất là các ca ở Đức. Hơn nửa thế kỷ qua đi, nhưng vẫn nhiều người ám ảnh bởi thảm kịch mà thalidomide gây ra. Tháng 8/2012, Tổng giám đốc hãng dược Gruenenthal, Đức đã công khai xin lỗi những bà mẹ từng dùng loại thuốc này và bắt đầu kế hoạch đền bù.
Bởi những điều trên, nên BS Đằng cho rằng chỉ khi nào việc nôn ói ảnh hưởng quá nặng đến sức khỏe, thai phụ mới nên dùng thuốc và việc dùng thuốc phải được bác sĩ kê chứ không tự ý dùng.
Vitamin B6 - "thuốc" an toàn nhất
Trước hết để giảm chứng nôn ói, BS Đằng khuyên bạn nên ăn theo từng bữa nhỏ, ăn những đồ ăn vừa đủ ấm, không quá nóng, hay quá lạnh và hạn chế các gia vị mạnh (tiêu, tỏi, hành).
Còn trong các dạng dược phẩm mà thai phụ có thể dùng, BS Đằng khuyên thai phụ nên tìm dùng các viên bổ sung vitamin B6 trước khi dùng thuốc Tây khác. 
Nguyên nhân là do B6 vừa là thành phần cần thiết cho cơ thể, có tác dụng tốt với sự phát triển của thai nhi. Vitamin B6 dù sinh ra không phải là thuốc chống nôn nhưng thực tế lại cho thấy nhiều trường hợp dùng chúng thì giảm hẳn cơn nôn ói.
Đến bây giờ y khoa chưa thống nhất lý do vì sao B6 chống được những cơn buồn nôn nhưng một số giả thuyết cho rằng do nó giúp chuyển hóa tốt protein nên giảm nôn ói. Mỗi ngày, thai phụ có thể bổ sung 2-10mg B6. 
Tuy nhiên bạn không được lạm dụng vì nếu dùng quá nhiều B6 sẽ gây mệt mỏi thần kinh. B6 cũng có trong nhiều thực phẩm như ngũ cốc, trứng, đậu, các loại hạt, quả bơ. Bởi vậy, trong thai kỳ, bạn bổ sung thêm các thực phẩm trên cũng có thể giảm cơn nôn ói.



Lưu ý để uống thuốc đúng cách


luu y khi uong thuoc-suckhoegiadinh
Uống thuốc không phải đơn giản và rất nhiều người đã gặp phải khó khăn trong quá trình uống thuốc. Tùy vào dược tính và tính khả dụng, sự hấp thụ, chuyển hóa, phân phối, thải trừ của thuốc mà thuốc viên được bào chế với các hình dạng khác nhau. Nhiều loại uống rất dễ dàng nhưng cũng có loại với kích thước "quá khổ" khiến cho người bệnh khó nuốt.
Điều này vốn là nỗi ám ảnh của rất nhiều người đặc biệt là đối với trẻ em. Việc sợ uống thuốc do khó nuốt có thể sẽ làm cho cuống họng càng bị siết chặt lại, điều này càng làm cho viên thuốc nằm lâu hơn trong miệng dẫn đến sợ hãi việc uống thuốc ở những lần sau.
Vì vậy, theo thông tin trên Người Lao Động, để việc uống thuốc trở nên dễ dàng hơn, bạn nên áp dụng những tuyệt chiêu sau:
Không được nuốt thuốc khi nằm
Cách tốt nhất là chỉ nuốt trong tư thế ngồi hoặc đứng.
Tìm cách gia tăng tuyến nước bọt
Miệng bị khô cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho việc nuốt thuốc. Bạn có thể tự làm tăng sự tiết nước bọt bằng cách tưởng tượng ra rằng đang thưởng thức những món ăn khoái khẩu hoặc những loại trái cây chua như me, xoài, cóc, ổi… 
Bạn cũng có thể uống trước một hớp nước hoặc đánh nhẹ mặt trên và mặt dưới của lưỡi vào môi hay răng. Rất nhiều người cảm thấy việc nuốt thuốc bỗng trở nên dễ dàng nếu áp dụng phương cách như trên.
Không nên nuốt thuốc bằng cách cắt, bẻ viên thuốc ra làm đôi hoặc nhiều phần nhỏ hơn
Phương pháp này có thể ảnh hưởng đến phương cách mà thuốc sẽ được hòa tan trong dạ dày, đồng thời còn làm cho viên thuốc càng có mùi vị "khó ưa" hơn. Bên cạnh đó, những cạnh sắc của mặt cắt viên thuốc có thể gây trầy xước cuống họng khi nuốt.
Vài viên thuốc được bao viên một cách đặc biệt có tác dụng "hẹn giờ". Khi bẻ viên thuốc ra, sẽ khiến cho viên thuốc được giải phóng nồng độ một cách nhanh chóng hơn, vì thế dễ xảy ra những trường hợp ngộ độc thuốc.
Không uống chung với những loại nước giải khát, nước trái cây
Có nhiều bậc cha mẹ tìm cách cho trẻ nuốt thuốc dễ hơn bằng việc cho uống chung với những loại nước giải khát, nước trái cây. Điều này hoàn toàn bất lợi cho việc sử dụng thuốc.
Cần phải được tư vấn bởi bác sĩ hoặc dược sĩ về việc nuốt thuốc với tất cả những loại thức uống. Rất nhiều dược phẩm bị mất đi tính hiệu quả hoặc gây ra tác dụng phụ khi được sử dụng chung với một số loại thực phẩm và thức uống. Chẳng hạn, vài loại kháng sinh không bao giờ được sử dụng chung với sữa hoặc những sản phẩm từ sữa (phô mai, yaourt…).
Một số người sử dụng thuốc đã "phát minh" ra những cách đưa thuốc vào cơ thể bằng việc cà thành bột rồi rắc vào đồ ăn, thức uống hoặc nuốt chung với trái cây như chuối, táo… Điều này chỉ làm phản tác dụng của thuốc hoặc có thể gây ra những tác dụng phụ có hại.
luu-y-khi-uong-thuoc-suckhoegiadinh
Khi nuốt chung với dịch ép nước bưởi, một số dược phẩm được tăng sự hấp thu
Nếu một loại thuốc được hấp thu nhanh hơn mong đợi, có nghĩa là thuốc ấy sẽ tăng tác động. Ví dụ, thuốc dùng để hạ huyết áp có thể sẽ làm hạ huyết áp quá mức. Nếu một loại thuốc tăng hấp thu, đồng nghĩa với việc tăng những tác dụng phụ. 
Nguyên nhân là trong dịch ép nước bưởi có nồng độ cao các chất naringin, bergamottin và dihydroxybergamottin. Những chất này sẽ tác dụng với enzyme cytochrome P450 insoform CYPA4. 
Các loại thuốc tương tác với nước ép bưởi gồm hạ huyết áp, hạ cholesterol statin, ức chế miễn dịch dùng trong các trường hợp cấy ghép các cơ quan nội tạng, chất ức chế men protease trong điều trị HIV/AIDS, vài loại thuốc chống lo âu (anti-anxiety) và kháng histamine (antihistamin). Cần tham khảo ý kiến dược sĩ xem những thuốc bạn đang sử dụng có bị ảnh hưởng bởi dịch ép nước bưởi hay không.
Nếu gặp khó khăn trong việc nuốt thuốc thì có thể bạn mắc phải chứng khó nuốt (dysphagia). Đây là lúc bạn cần phải được chẩn đoán và điều trị. Hãy nhớ rằng những bệnh nhân dysphagia không những gặp khó khăn khi nuốt thuốc mà còn khổ sở trong việc nuốt thực phẩm, uống nước…
Các loại nước uống không tốt khi dùng thuốc
Bạn cần được dược sĩ tư vấn để xem loại thuốc đang dùng với loại nước đang uống có thể xảy ra tương tác hay không. 
Trà và cà phê thường làm giảm hoặc mất hoạt tính của thuốc. Đặc biệt, dịch ép nước bưởi có thể gây bất lợi cho việc uống thuốc. Dịch ép nước bưởi sẽ làm tăng sự hấp thu của một số dược phẩm. Điều này nghe có vẻ như có lợi song thực tế lại gây nguy hiểm cho cơ thể.



Nhỏ thuốc mắt chớ nhỏ bệnh

Thói quen tự mua thuốc về nhỏ mắt có thể khiến bạn có cảm giác dễ chịu lúc đó nhưng thực chất chúng đang khiến bạn bị bệnh nặng thêm, thậm chí có nguy cơ mù lòa.



Coi chừng đục thủy tinh thể
Trong một lần đau và ngứa mắt, chị Lê Thu Hoa, Thanh Xuân, Hà Nội đã không đi khám và mua thuốc mà lại dùng thuốc của người bạn, vì nghe nói: "Lần trước, tôi cũng bị như thế, dùng thuốc này rất tốt".
Chị nhỏ thuốc vào buổi tối thì ban đầu chỉ thấy dặm dặm mắt khó chịu, đến sáng hôm sau mắt sung vù lên, đỏ. Khi đến khám tại BV Mắt Quốc tế, Hoa mới biết cô bị như thế là do dị ứng với corticoid trong lọ thuốc nhỏ mắt. Ngay lập tức các bác sĩ cho dừng sử dụng loại thuốc nhỏ mắt này, và cô phải điều trị tại đây 3 ngày thì khỏi.
Không ít người cũng giống chị Hoa, hễ thấy ngứa mắt nhỏ mắt là tự ý mua thuốc về dùng, hoặc nhất định yêu cầu quầy thuốc tư bán cho loại thuốc đã dùng như lần trước. Tình trạng bán thuốc không theo đơn, dùng thuốc ko theo chỉ định của bác sĩ… tương đối phổ biến ở Việt Nam.
BS Đặng Văn Quế - Phó Giám đốc BV Mắt Quốc tế cho biết, thuốc nhỏ mắt có nhiều loại (kháng sinh, corticoid…), trong đó việc sử dụng thuốc nhỏ mắt có chứa corticoid nhất thiết phải theo sự chỉ định của bác sĩ. Ngay cả trường hợp bác sĩ chỉ định những thuốc có corticoid để nhỏ vào mắt thì bác sĩ cũng phải thận trọng khuyên người ta nhỏ trong vòng bao nhiêu lâu.
Thuốc nhỏ mắt có corticoid có công dụng trị bệnh rất nhanh nếu dùng đúng. Nhưng chúng lại dễ để lại tác dụng phụ nguy hiểm, không chỉ gây nguy cơ dị ứng như trường hợp của chị Hoa mà còn có thể gây hỏng mắt như thủy tinh thể, tăng nhãn áp. Lý do là quá trình chuyển hóa thuốc trong cơ thể có thể làm ảnh hưởng đến tương tác trong phần thủy tinh thể nên nó gây đục.
Trước nguy cơ trên, BS Quế còn nhấn mạnh: Không chỉ những loại thuốc nhỏ mắt chứa corticoid mới cần dùng theo đơn của bác sĩ, mà ngay các loại thuốc nhỏ mắt thông thường khác người bệnh cũng không nên tự ý mua dùng.
Tốn tiền, bệnh không khỏi
Các loại bệnh về mắt được chia làm nhiều dạng, nhưng chúng thường có một vài biểu hiện bên ngoài giống nhau như: đỏ, ngứa. Chính vì thế, dù nhiều người đang bị một bệnh khác với lần trước nhưng lại chủ quan cho rằng dùng thuốc như lần trước cũng hiệu quả.
Đồng thời, thuốc nhỏ mắt loại corticoid lại vừa mang tính kháng viêm, vừa giảm đau luôn có thể làm mắt êm hơn, đỡ đau nhức, đỡ xót, giảm dấu hiệu đỏ và ngứa. Thế nên bệnh nhân nhầm tưởng loại nhỏ mắt có thành phần corticoid có công hiệu, dù đang bị bệnh gì.
Nhưng trên thực tế, BS Quế cho biết thuốc corticoid không chống được tình trạng viêm loét (như trong bệnh viêm loét giác mạc) nên nếu người bệnh dùng coricoid có thể khiến viêm nhiễm mạnh hơn, bệnh nặng thêm. Trong trường hợp này, đáng lẽ bệnh nhân phải dùng loại nhỏ mắt có kháng sinh hoặc thuốc có kết hợp kháng sinh với corticoid.
Việc dùng thuốc nhỏ có kháng sinh có công hiệu trong trị bệnh viêm loét ở mắt nhưng dùng không theo chỉ định cũng có thể gây nguy hiểm là quen thuốc, nhờn thuốc, khiến mắt lâu khỏi và khó khỏi hơn. 
Việc dùng lại các lọ thuốc của lần trị bệnh trước, hoặc dùng chung với người khác cũng có thể khiến mắt thêm nhiễm khuẩn. Nguyên nhân là lọ thuốc sau khi đã mở nắp có có không khí vào đem theo vi khuẩn, vi nấm gây nhiễm bẩn.
Những lưu ý khi dùng thuốc nhỏ mắt
Sau khi đã được chỉ định đúng loại thuốc, bạn cũng cần học cách "nhỏ":
- Không nhỏ 2 hoặc 3 loại thuốc cùng lúc: Hai loại thuốc phải nhỏ cách nhau tối thiểu 15 phút để tránh phản ứng thuốc với nhau và tránh lãng phí thuốc do bị trào ra ngoài.
- Một lọ thuốc sau khi đã mở nắp thì không dùng quá 15-20 ngày
- Không cất trữ lọ thuốc dùng dở dang sau khi đã khỏi bệnh.
- Khi sử dụng, tránh đụng chạm vào đầu lọ thuốc nhỏ mắt vì sẽ gây nhiễm bẩn lọ thuốc và lọ thuốc lúc này sẽ trở thành nguồn gây bệnh.



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons