Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Thuốc Paracetamol không tốt như chúng ta vẫn nghĩ


Nghiên cứu của các nhà kha học Úc công bố trong tạp chí The Lancet, là thử nghiệm ngẫu nhiên lớn đầu tiên để so sánh hiệu quả của Paracetamol với giả dược trong việc điều trị chứng đau lưng thấp.
Nghiên cứu phân tích thử nghiệm ngẫu nhiên 1.652 cá nhân có độ tuổi trung bình 45 và mắc chứng đau lưng thấp từ 235 trung tâm chăm sóc ban đầu tại Sydney, Úc. Họ được dùng Paracetamol với liều thông thường trong 1 tháng.
Trong số này được chia làm 3 nhóm: nhóm nhận Paracetamol 3 lần/ngày lên đến 3.990mg; lên đến 4.000mg /1 ngày khi cần thiết và nhóm dùng giả dược.
Nghiên cứu cho thấy thời gian phục hồi là 16-17 ngày cho tất cả 3 nhóm. Tức là loại thuốc giảm đau phổ biến này không tốt hơn so với giả dược trong việc đẩy nhanh tốc độ phục hồi các cơn đau cấp.
TS Christopher Williams, trưởng nhóm nghiên cứu tại ĐH Sydney, cho biết: "Thuốc giảm đau đơn giản như Paracetamol có thể không quan trọng hàng đầu trong việc điều trị cơn đau lưng cấp tính. Kết quả cho thấy chúng ta cần phải xem xét lại các khuyến nghị Paracetamol trong điều trị hàng đầu cho bệnh đau lưng thấp".
Hiện nay, tất cả các hướng dẫn điều trị đau lưng trên thế giới khuyến cáo Paracetamol là loại thuốc giảm đau được chọn đầu tiên. Tuy nhiên, ông Williams cho biết thực tế cho thấy không có nghiên cứu nào trước đây cung cấp bằng chứng mạnh mẽ về chức năng hoạt động của loại thuốc này.



Dùng thuốc trị hen thế nào cho hiệu quả?

Hen phế quản là bệnh lý hô hấp rất phổ biến, đặc biệt trong thời tiết giao mùa thì tỉ lệ phát các cơn hen cấp lại càng tăng. 
Hiện nay đã có khá nhiều thuốc được dùng điều trị cắt cơn hen cấp và thuốc kiểm soát dự phòng cơn hen. Trong bài này xin giới thiệu một số thuốc cắt cơn, thuốc dự phòng chính hiện nay cũng như những lưu ý khi sử dụng các thuốc này.
Chống co thắt phế quản
Thuốc hay dùng và hiệu quả nhất trong điều trị cắt cơn hen là các thuốc nhóm kích thích ß2 adrenergic (còn gọi là thuốc chủ vận ß2). 
Cơ chế tác dụng của các thuốc trong nhóm này là thuốc gắn với thụ cảm thể ß2 ở màng tế bào cơ trơn phế quản làm hoạt hoá men Adenyl cyclase dẫn đến tăng nồng độ AMP vòng và hoạt hoá protein kinase A làm tăng canxi tự do nội bào cuối cùng có tác dụng giãn cơ trơn phế quản. 
Các thuốc nhóm này lại được chia thành 2 nhóm là thuốc tác dụng ngắn và thuốc tác dụng kéo dài.
Bệnh hen là bệnh lý hô hấp rất phổ biến.Bệnh hen là bệnh lý hô hấp rất phổ biến
Thuốc tác dụng ngắn bao gồm salbutamol, terbutalin, fenoterol, thuốc có tác dụng ngay sau khi dùng và thời gian tác dụng kéo dài từ 4 - 6h.
Thuốc tác dụng kéo dài khoảng 12h bao gồm salmeterol, formoterol. Tốt nhất là dùng thuốc cắt cơn hen bằng thuốc nhóm này dưới dạng hộp có liều định chuẩn (MDI) để xịt họng khi có cơn khó thở hoặc dạng ống khí dung ngày 3-6 lần.
Dự phòng cơn hen về đêm nên dùng salbutamol tác dụng kéo dài hoặc salmeterol.
Tác dụng không mong muốn và thận trọng khi dùng nhóm thuốc này bao gồm các triệu chứng đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, run nhẹ (đặc biệt ở đầu ngón tay). Hiếm gặp các triệu chứng khác như nhức đầu, mất ngủ, giãn mạch ngoại biên, loạn nhịp tim, hạ kali máu, tăng glucose và acid béo tự do trong máu, phản ứng quá mẫn. 
Dùng đường khí dung có thể gây co thắt phế quản. Dùng nhiều lần sẽ có hiện tượng quen thuốc, bệnh nhân có xu hướng phải tăng liều. Đối với bệnh nhân cường giáp, bệnh tim mạch, tăng huyết áp, loạn nhịp tim, đái tháo đường, đang điều trị bằng MAOI thì phải hết sức thận trọng khi dùng.
Thuốc nhóm methylxanthin: do có một số tác dụng phụ và tác dụng giãn phế quản kém hơn thuốc nhóm kích thích ß2 adrenergic, hiện nay ít dùng trong điều trị hen phế quản so với trước đây. Các dạng thuốc nhóm này hiện nay có trên thị trường thuốc: theophylin, synthophylin. 
Cơ chế chung của thuốc nhóm này là ức chế men photphodiestease làm tăng AMPc, chống viêm, ức chế thụ cảm thể Adrenosin A1, A2, A3 làm giảm giải phóng các trung gian hoá học như: histamin, leucotrien.
Hiện nay, theophylin uống giải phóng nhanh ít được dùng trong điều trị hen, chủ yếu dùng theophylin giải phóng chậm, duy trì đủ nồng độ thuốc trong máu trong 12h để điều trị dự phòng và kiểm soát hen về đêm. 
Trong cơn hen nặng, theophylin được dùng phối hợp với các thuốc cường β2 hoặc corticoid để làm tăng tác dụng giãn phế quản, nhưng lại có thể làm tăng tác dụng không mong muốn của thuốc cường β2 (hạ kali máu).
Theophylin có thể dùng đường tiêm là aminophylin, hỗn hợp của theophylin và ethylendiamin, tan trong nước gấp 20 lần so với theophylin đơn độc. Trong điều trị cơn hen nặng, tiêm tĩnh mạch aminophylin rất chậm (ít nhất trong 20 phút).
Tác dụng không mong muốn
Thường gặp nhịp tim nhanh, tình trạng kích thích, bồn chồn, buồn nôn, nôn. Ít gặp: kích ứng đường tiêu hóa, đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, run, co giật, loạn nhịp tim, hạ huyết áp, phản ứng dị ứng.
Với bệnh nhân quá mẫn cảm với thuốc, bệnh nhân bị loét dạ dày - tá tràng tiến triển, rối loạn chuyển hóa porphyrin, động kinh không kiểm soát được thì không được sử dụng nhóm thuốc này. 
Bệnh nhân có bệnh tim, tăng huyết áp, cường giáp, tiền sử loét dạ dày - tá tràng, suy gan, động kinh, có thai và cho con bú, người cao tuổi, đang bị sốt, dùng cùng các thuốc ức chế enzym chuyển hóa thuốc ở gan phải thận trọng và được bác sĩ theo dõi trong quá trình sử dụng.
Thuốc nhóm kháng cholinergic: có tác dụng giãn cơ trơn do ức chế thụ cảm thể muscarinic ở cơ trơn phế quản, ức chế phó giao cảm, tác dụng cắt cơn hen kém hiệu quả hơn so với nhóm kích thích ß2, tác dụng chậm hơn nhưng kéo dài hơn. Thuốc thường dùng là ipraptopium bromide hoặc dùng dạng phối hợp với fenotenol khí dung hoặc dùng dạng xịt họng.
Các thuốc chống viêm
Corticosteroid: cơ chế ức chế phản ứng viêm trong hen, hiện nay coi là thuốc chính trong điều trị hen phế quản. Tuy vậy, trong điều trị hen hay dùng các thuốc tác dụng tại chỗ vì dùng đường toàn thân (đường uống hay đường tiêm) có nhiều tác dụng phụ nguy hại đặc biệt khi dùng kéo dài. 
Các thuốc hay dùng là prednisolon, methyl prednisolon dùng đường tiêm trong cơn hen cấp tính nặng. Khi đã cắt cơn dùng thay nhanh bằng đường uống hoặc corticosteroide tại chỗ dùng dạng xịt hít hoặc khí dung.
Hiện nay, xu hướng hay dùng dạng thuốc phối hợp giữa corticoide tại chỗ với một thuốc kích thích ß2 adrenergic tác dụng kéo dài như ống hít symbicort (formoterol với budesonide) hoặc hộp xịt seretide (salmeterol với fluticasone) để kiểm soát hen, nếu bệnh nhân tuân thủ điều trị, kết quả kiểm soát hen rất tốt.
Tuy nhiên, khi bệnh nhân có các triệu chứng hô hấp nghi ngờ bị bệnh hen phế quản thì cần đến các cơ sở chuyên khoa hô hấp để được bác sĩ chẩn đoán bệnh, đánh giá mức độ nặng của bệnh, tư vấn cách điều trị dự phòng cũng như cách dùng thuốc để kiểm soát bệnh một cách triệt để.



Thuốc tiểu đường có thể phòng tránh ung thư

Một loại thuốc được chỉ định rộng rãi để điều trị bệnh tiểu đường tuýp 2 có thể giúp tất cả chúng ta sống lâu hơn và phòng tránh ung thư, một nghiên cứu tại Anh mới đây cho biết.

thuoc-tieu-duong
Nghiên cứu cho thấy thuốc Metformin giúp kiểm soát lượng đường cũng có thể ngăn ngừa bệnh tim mạch và ung thư - bất kể người đó có bị bệnh tiểu đường hay không.
Các phát hiện được công bố trên tạp chí Diabetes, Obesity và Metabolism. Cụ thể, các nhà khoa học đã nghiên cứu hơn 180.000 người và tìm thấy một "cải tiến nhỏ nhưng có ý nghĩa thống kê về sự sống còn giữa những người dùng thuốc Metformin so với những người uống thuốc chống đái tháo đường cũ và một nhóm khác không bị tiểu đường".
Theo đó, nghiên cứu và thống kê đã chỉ ra rằng, thời gian sống trung bình ở những người khỏe mạnh thậm chí thấp hơn là 15% so với bệnh nhân tiểu đường dùng thuốc Metformin, còn những bệnh nhân đái tháo đường dùng các loại thuốc cũ có thời gian sống thấp hơn 38% những bệnh nhân dùng Metformin.
Tác giả chính của nghiên cứu, GS Craig Currie của ĐH Y Cardiff (Anh) cho biết, nghiên cứu sâu hơn về ảnh hưởng của Metformin trên những người khỏe mạnh cho kết quả khả quan, đặc biệt khi nó có tác dụng phụ không đáng kể.
"Đáng ngạc nhiên, kết quả cho thấy, loại thuốc tiểu đường giá rẻ và được chỉ định dùng rộng rãi này có lợi ích không chỉ đối với bệnh nhân tiểu đường mà còn với cả những người không bị bệnh", GS Craig Currienói.
Ông cũng cho biết bệnh nhân bị bệnh tiểu đường tuýp 2 thường giảm trung bình khoảng 8 năm tuổi thọ. Cách tốt nhất để tránh tình trạng này hoàn toàn là giữ cơ thể không bị béo phì và thường xuyên tập một số tập thể dục nhẹ.
Tuy nhiên, Kevin McConway, giáo sư về thống kê ứng dụng tại ĐH Mở (Anh) cho biết, sự khác biệt rõ ràng trong sự sống còn giữa các bệnh nhân tiểu đường dùng Metformin và những người khỏe mạnh trong nghiên cứu là tương đối nhỏ và có thể là do các yếu tố khác - như bệnh nhân tiểu đường được theo dõi và điều trị tốt hơn cho các vấn đề liên quan đến tim từ đó cho những kết quả có khả năng tốt hơn trong ngắn hạn.
Dẫu vậy, phát hiện mới về thuốc Metformin khá "hấp dẫn" và cần tiến hành các cuộc thử nghiệm qui mô lớn trên dân số khỏe mạnh để xác thực lợi ích kéo dài tuổi thọ của thuốc, cũng như để xem có nên chỉ định nó cho người bình thường hay không.



Hạn chế tác dụng phụ do thuốc giảm đau

Đau là triệu chứng thường gặp và gây nhiều phiền toái, khó chịu cho người bệnh. Để chế ngự các cơn đau, giải pháp được lựa chọn đầu tiên là dùng thuốc.




Đau là triệu chứng thường gặp và gây nhiều phiền toái, khó chịu cho người bệnh. Để chế ngự các cơn đau, giải pháp được lựa chọn đầu tiên là dùng thuốc.
Trên thị trường có nhiều loại thuốc giảm đau đường uống không bắt buộc kê đơn, người bệnh có thể tự mua về dùng. Tuy nhiên, việc tự ý dùng thuốc giảm đau và lạm dụng các thuốc này cũng dễ phải gánh chịu những tác dụng phụ đáng tiếc.
Thuốc giảm đau không qua kê đơn là những thuốc không có dẫn chất thuốc phiện, không gây nghiện, không gây ngủ. Các thuốc này được dùng phổ biến trong các chứng đau nhẹ và đau vừa. 
Thuốc giảm đau thông dụng gồm: Các thuốc chống viêm không steroid (các thuốc NSAID) như: aspirin, indomethacin, diclofenac, ibuprofen, nimesulid, naproxen, piroxicam, meloxicam, ketoprofen... Nhóm thuốc này thường dùng để điều trị các bệnh đau do sưng viêm các khớp. 
Thuốc giảm đau hay dùng nhất hiện nay là paracetamol (hay còn được gọi là acetaminophen). Ngoài tác dụng giảm đau, thuốc còn có tác dụng hạ nhiệt.
Hạn chế tác dụng phụ do thuốc giảm đau
Paracetamol và ibuprofen có thể gây tổn thương thận nếu dùng trong thời gian dài
Lưu ý khi chọn thuốc giảm đau
Thuốc hoạt động hiệu quả như thế nào? Cả paracetamol và các thuốc NSAID đều hiệu quả trong việc điều trị các cơn đau ở mức độ nhẹ đến vừa cũng như hạ sốt. Vì vậy, chỉ dùng một trong các loại thuốc này, không dùng đồng thời nhiều loại thuốc cùng lúc.
Thuốc có thích hợp với đối tượng không? Tất cả các thuốc giảm đau không kê đơn nhìn chung đều an toàn, nhưng không phải tất cả các thuốc giảm đau đều thích hợp với tất cả mọi người. Một điều quan trọng là cần phải xem xét các vấn đề sức khỏe của từng trường hợp khi lựa chọn một loại thuốc giảm đau không qua kê đơn. 
Vấn đề tuổi tác: Khi sử dụng bất cứ loại thuốc nào cho trẻ em thì cần phải cân nhắc kỹ, bởi khả năng đáp ứng với thuốc của trẻ em khác người lớn. Ví dụ như người lớn có thể dùng aspirin, nhưng trẻ dưới 16 tuổi thì không nên sử dụng aspirin bởi vì có nguy cơ cao bị hội chứng Reye có thể ảnh hưởng lên não và gan.
Loại thuốc giảm đau có thể sử dụng ở trẻ em dưới 12 tuổi là paracetamol và ibuprofen. Cả 2 loại thuốc này đều hiệu quả như nhau làm giảm đau và hạ sốt. Paracetamol có thể được chỉ định ở trẻ em từ 1 tháng tuổi. Ibuproten có thể được chỉ định ở trẻ từ 3 tháng tuổi.
Chọn thuốc giảm đau cho người cao tuổi thì càng phải thận trọng. Họ thường mắc đồng thời nhiều bệnh như đau khớp hoặc bệnh lý tim mạch... 
Hơn nữa, cơ thể người cao tuổi cũng dễ bị các tác dụng phụ khi dùng thêm một loại thuốc khác. Vì vậy, nên lựa chọn thuốc giảm đau không có nguy cơ gây ra các tác dụng phụ và có thể uống cùng những thuốc điều trị khác (ưu tiên lựa chọn paracetamol).
Tác dụng phụ của thuốc giảm đau không kê đơn
Viêm loét, xuất huyết đường tiêu hóa: khi sử dụng liều cao aspirin và các thuốc NSAID có thể gây tổn hại màng nhầy ở dạ dày và đường tiêu hóa trên tạo nên sự viêm loét, xuất huyết ở hệ tiêu hóa. Sử dụng liều cao ibuprofen trong vòng 3 ngày có thể gây xuất huyết đường tiêu hóa, gây đau dạ dày... 
Vì vậy, với trường hợp đã bị loét dạ dày hoặc trước đây từng bị loét dạ dày thì nên tránh sử dụng các thuốc NSAID. 
Hiện nay, đã có các dạng bào chế thích hợp để giảm hoặc hạn chế phản ứng có hại nói trên như aspirin pH8, các thuốc ức chế COX2. Tuyệt đối không dùng cùng lúc nhiều loại thuốc NSAID. Cần uống thuốc lúc no và nên uống thuốc với nhiều nước để nhanh chóng đưa thuốc xuống ruột.
Các vấn đề về tim mạch và tăng huyết áp: Tất cả những trường hợp có tiền sử suy tim nặng nên tránh sử dụng các thuốc NSAID vì có thể gây ra những vấn đề khác trên cơ thể. Một ngoại lệ duy nhất là aspirin liều thấp, giúp dự phòng cơn nhồi máu cơ tim trong tương lai ở những người từng bị nhồi máu cơ tim trước đó. 
Với trường hợp bị tăng huyết áp, khi muốn dùng thuốc, phải tham khảo ý kiến của thầy thuốc vì các thuốc NSAID có thể gây ra một số tác dụng phụ. Thay vào đó, paracetamol có thể là sự lựa chọn phù hợp cho người bị tăng huyết áp hoặc các vấn đề về tim mạch.
Tổn thương thận: paracetamol và ibuprofen có thể gây tổn thương thận nếu dùng trong thời gian dài hoặc ở trường hợp đã có tiền sử bệnh lý về thận. Vì vậy, khi cần dùng thuốc phải tuyệt đối theo chỉ định của thầy thuốc.
Tổn thương gan: paracetamol có thể làm tổn thương gan nghiêm trọng nếu dùng sai cách, quá liều trong thời gian dài. Triệu chứng của một lá gan bị tổn thương bao gồm chán ăn, buồn nôn, nếu không được điều trị triệt để có thể làm suy gan hoặc thậm chí tử vong.
Tuân thủ chỉ định của thầy thuốc
Bệnh nhân bị hen phế quản sử dụng các thuốc NSAID có thể khởi phát một cơn hen mới. Những bệnh nhân có vấn đề liên quan đến sự tăng nguy cơ chảy máu thì nên cẩn thận khi sử dụng các thuốc NSAID bởi vì chúng có thể ảnh hưởng lên quá trình hình thành cục máu đông. 
Với phụ nữ mang thai thì chỉ có paracetamol có thể sử dụng được. Aspirin không được dùng ở phụ nữ có thai và hầu hết các thuốc NSAID khác không được sử dụng ở 3 tháng cuối của thai kỳ. Các thuốc NSAID có thể qua được hàng rào nhau thai đến thai nhi, vì vậy, chỉ dùng thuốc khi có chỉ định của thầy thuốc.



Sự thật về thuốc Truvada ngừa HIV

Đây được xem là một sự kiện chấn động, mang lại niềm hi vọng cho cả nhân loại trong cuộc chiến chống đại dịch HIV-AIDS.


Thuốc chống hiv
"Truvada vạn tuế!"
Đấy là lời reo mừng của nickname hoavu trên diễn đàn hiv.com.vn ngay khi thông tin FDA cấp chứng nhận Trudava là thuốc đầu tiên phòng ngừa HIV được đăng tải. Nhiều người tin tưởng đại dịch HIV/ADIS sẽ kết thúc trong một tương lai không xa nhờ suy luận "đã có thuốc phòng ngừa thì chắc chắn sẽ nhanh chóng tìm ra thuốc chữa".
Quá vui mừng với thông tin trên, trên diễn đàn hiv.com và voz.com không ít người đã tỏ ra rất nóng lòng tìm kiếm loại thuốc này:
"Thế này thì nhanh chóng bảo người thân ship hàng từ bên đó về thôi, nhà mình có người thân ở Mỹ, ai có nhu cầu, chúng ta lập hội, mình làm đầu mối nhé. Mình đã xem bảng giá online trên các trang nước ngoài rồi, thấp chỉ bằng nửa giá mà các chuyên gia nhắc trên web của FDA" hay "Phải tích cóp tiền ngay từ bây giờ để mua thuốc".
Chị Trần Thị Thanh Mai (số 211 Khương Trung, Thanh Xuân, Hà Nội) sau khi nghe thông tin trên tivi còn ngồi nhẩm tính: "Thuốc này còn đắt quá. Con mình vừa được 2 tuổi, khoảng 10 năm nữa nó đến tuổi dậy thì, lúc đó chắc cũng rẻ rồi, mà không rẻ thì cũng đủ tiền cho con uống phòng.
Lúc ấy có khi còn thêm nhiều loại thuốc tương tự nữa". Nhưng bên cạnh đó thì nhiều người lại có phản ứng tiêu cực rằng: "Tìm ra thuốc này thì chỉ khiến người ta buông thả hơn trong quan hệ tình dục. Bao cao su cũng sẽ ế hàng". Sự thực, Truvada có hiệu quả như nhiều người đang nghĩ?
Thuốc cũ công năng mới
Khi FDA ký phê duyệt Truvada với công dụng phòng ngừa HIV thì thực chất đây chỉ là sự ghi nhận thêm công dụng của loại thuốc này.
Truvada gồm hai thành phần là emtricitabine (200mg) và tenofovir disoproxil fumarate (300mg). Từ năm 2004, thuốc này đã được FDA phê chuẩn có công dụng kháng virus HIV và nó được liệt kê vào phác đồ điều trị HIV cho trẻ em trên 12 tuổi. Để điều trị HIV, người ta kê toa kết hợp từ khoảng 30 loại thuốc có tác dụng kháng retrovirus (gọi chung là thuốc ARV) để tránh kháng thuốc.
Truvada là một trong các thuốc ARV, chúng được kết hợp với các thuốc khác nhằm điều trị giúp bệnh nhân chung sống hòa bình với bệnh. 
Lúc này họ có thể xem HIV giống căn bệnh mạn tính khác như tiểu đường, tim mạch… và có thể duy trì tuổi thọ tới 80-90. Tuy nhiên sau nhiều thử nghiệm, trong khoảng 30 thuốc trên, chỉ có Truvada được công nhận là có thêm công năng là dự phòng nhiễm HIV.
Chỉ phòng tránh được 42-75% nguy cơ
Hiện tại, Truvada chỉ mới được phê chuẩn dành cho những người có nguy cơ phơi nhiễm HIV cao như: người có vợ chồng có H, quan hệ tình dục có nguy cơ phơi nhiễm… 
Trước khi phê duyệt, thuốc này đã được đưa qua hai đợt thử nghiệm. Lần thứ nhất, thử nghiệm trên 2.499 nam giới (hoặc phụ nữ chuyển giới) có quan hệ đồng tính và có nguy cơ lây nhiễm cao (quan hệ không dùng bao cao su với các đối tác có H hoặc không rõ tình trạng).
Kết quả cho thấy Truvada có khả năng giảm 42% nguy cơ lây nhiễm. Lần thử nghiệm thứ hai được thực hiện trong 4.758 cặp đôi có quan hệ dị tính, trong đó một đối tác có H. Kết quả lần thử nghiệm này cho thấy Truvada có tác dụng lên tới 75%. Sau khi tổng kết các thử nghiệm, họ nhận thấy những người hành nghề mại dâm vẫn có nguy cơ lây nhiễm cao hơn các đối tác khác.
Vì vậy dù được phê duyệt là thuốc có tác dụng phòng tránh HIV thì đến nay, Truvada vẫn không phải là phương pháp ưu việt nhất để phòng ngừa. Hãng sản xuất Gilead Sciences cùng các nhà nghiên cứu vẫn đặt ra mục tiêu cải tiến nhiều hơn nữa với Truvada để tăng thêm hiệu quả với nhóm người nguy cơ lây nhiễm cao.
Không phải ai cũng dùng được
FDA nhấn mạnh, Truvada cần được bác sĩ kê toa cho những trường hợp đã có xét nghiệm âm tính với HIV và chống chỉ định cho những người đã có xét nghiệm dương tính hoặc chưa rõ tình trạng. Và hiện nay, tác dụng phụ lên phụ nữ mang thai vẫn chưa được thu thập đầy đủ.
Không nên bỏ qua các biện pháp bảo vệ khác
Chưa xét về khía cạnh đạo đức, tình cảm hay lối sống thì sử dụng Truvada cũng không có nghĩa là bạn có thể an tâm "buông thả" trong quan hệ tình dục. Truvada chưa phải là thuốc được kê toa cho tất cả mọi người nhằm phòng tránh trên diện rộng (như vắc-xin).
Ông Howard Jaffe, Chủ tịch Qũy từ thiện Gilead (thuộc công ty Gilead Sciences - cha đẻ của Truvada) đã ví cơ chế an toàn của Truvada tương tự cơ chế an toàn trong ô tô rằng: "Chúng ta may mắn có túi khí nhưng nó không làm cho dây an toàn lỗi thời".
Còn ông James Loduca, Quỹ phòng chống AIDS San Francisco thì nói rằng: "Một mình Truvada không thể kết thúc AIDS nhưng chúng tôi không thể kết thúc AIDS mà không có nó". 
Trong thông báo phê duyệt, FDA cũng nhấn mạnh Truvada chỉ là một phần của kế hoạch phòng chống, người dùng vẫn phải lưu tâm tới bao cao su và thường xuyên xét nghiệm. Bởi thế, cho đến nay và trong nhiều năm tới các nhà khoa học vẫn phải miệt mài để tìm ra vaccine thực sự cho căn bệnh này.



Thuốc dạ dày: Muốn uống phải chọn giờ

Thuốc điều trị bệnh dạ dày là một trong những loại "đỏng đảnh" nhất. Nên nếu không uống đúng giờ, bạn dễ gặp phải những biến chứng nguy hại hơn cả việc không điều trị.

Assorted pills
Kháng thuốc vì uống sau ăn
Để điều trị bệnh dạ dày, bạn cần uống kháng sinh để tiêu diệt vi khuẩn HP- một tác nhân nguy hiểm gây bệnh. Bác sĩ thường dặn bạn phải uống trước lúc ăn nhưng nhiều người lại cho rằng kháng sinh thì phải uống sau khi đã "lót dạ" mới an toàn. 
Đây là một sai lầm tai hại trong điều trị bệnh dạ dày. Khi chưa ăn, nồng độ acid trong dạ dày thấp không đủ khả năng phân huỷ thuốc. Do đó, thuốc được bảo toàn và đủ nồng độ để tiêu diệt vi khuẩn HP.
Còn sau khi ăn, nồng độ acid trong dạ dày rất cao nên nếu uống kháng sinh sau ăn thì thuốc sẽ bị phân huỷ ngay lập tức. Do đó, vi khuẩn không bị tiêu diệt hẳn, mà chúng chỉ bị làm yếu, tạo điều kiện cho chúng sinh ra các men phân huỷ thuốc, đồng thời thay đổi cấu trúc làm thuốc khó ngấm vào hơn. 
Hệ lụy lâu dài là vi khuẩn trở nên kháng thuốc, bệnh của bạn ngày càng khó điều trị. Để tránh sai lầm này, bạn luôn phải uống thuốc kháng sinh trước khi ăn cơm ít nhất 30 phút.
Hay tái phát vì bạ đâu uống đấy
Trong toa điều trị bệnh dạ dày cũng thường có thêm thuốc che phủ bề mặt nhằm che phủ hoàn toàn ổ loét. Thuốc này có tác dụng khiến vi khuẩn không tấn công được, đồng thời ngăn chặn acid "ăn mòn" ổ loét.
Nếu bạn uống trước khi ăn quá lâu thì phí hoài vì thuốc không có tác dụng. Nếu bạn uống sau bữa ăn thì các mảnh thức ăn đã chẹn vào trong ổ loét nên thuốc không thể bám vào bề mặt ổ loét mà chỉ che phủ bên trên mảnh thức ăn. 
Khi thức ăn bong ra thì ổ loét đương nhiên bị lộ ra. Kết quả là bệnh kéo dài khó điều trị khỏi, hay tái đi tái lại mà không thể liền sẹo hoàn toàn.
Bởi vậy, nếu phải uống thuốc che phủ thì bạn cần phải nhai (dạng viên) hoặc cần phải uống nguyên chất không pha nước (dạng sữa). Đồng thời, bạn phải uống trước bữa ăn khoảng 30 phút, không uống sau hoặc trước thời điểm ăn quá lâu.
Ung thư hoá vì sai giờ
Có hai loại thuốc giảm tiết acid trong điều trị dạ dày là: Cimetidin và Omeprazol. Mỗi thuốc đòi hỏi quy tắc thời gian uống khác nhau: Thuốc giảm tiết loại cimetidin thì phải uống trước ăn khoảng 30 phút nhưng thuốc chống tiết acid loại Omeprazol thì lại phải uống vào ban đêm.
Bạn làm sai lệch quy tắc này sẽ làm giảm 1/3 công dụng điều trị của thuốc. Việc giảm khả năng điều trị khiến các vết loét không thể liền, kéo dài dai dẳng nên những tế bào viêm rất dễ bị biến dạng thành ung thư. Biến cố ung thư càng hay xảy ra hơn với người bị bệnh viêm loét dạ dày diện rộng, viêm loét vùng hang môn vị, viêm loét bờ cong nhỏ.
Vì vậy, khi cần uống thuốc giảm tiết acid thì cần xem mình đang dùng loại nào để chọn uống đúng giờ.



Để thuốc ngủ không là đại họa

Giấc ngủ giúp cơ thể phục hồi năng lượng đã tiêu hao khi thức. Thời lượng trung bình của giấc ngủ là 8 tiếng nhưng không nhất thiết phải luôn luôn như vậy. Dấu hiệu cho biết bạn đã ngủ đủ là cảm giác sảng khoái, tươi tỉnh, thoải mái khi thức giấc vào ban ngày còn không.
Giấc ngủ gồm nhiều chu kỳ (mỗi chu kỳ kéo dài khoảng 90 phút). Mỗi chu kỳ gồm nhiều giai đoạn:
- Bắt đầu ngủ
- Ngủ sâu
- Ngủ thật sâu
- Ngủ nghịch thường (paradoxic sleep)
Rối loạn giấc ngủ có nhiều loại như: mất ngủ, ngủ nhiều, hay gặp ác mộng, miên hành, nói mớ, nghiến răng, hoảng sợ khi ngủ… Riêng mất ngủ là rối loạn thường gặp nhất. Ở Mỹ, có đến khoảng 70 triệu người Mỹ bị mất ngủ kinh niên.
Mất ngủ là triệu chứng của nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra:
- Có thể do ngoại cảnh như: tiếng ồn, lạ nhà, sự phiền muộn, chất kích thích (trà, cà phê, rượu), thuốc (chống trầm cảm, kích thích hệ thần kinh trung ương, glucocorticoid…), sai lầm trong ăn uống (no quá, đói quá).
- Có thể do bệnh tiềm ẩn như: trào ngược dạ dày- thực quản, trầm cảm, bệnh hô hấp (hen suyễn, nghẹt mũi…), xương khớp (viêm xương khớp), tim mạch (suy tim), nội tiết (đái tháo đường, cường giáp)…
- Mất ngủ cũng có thể liên quan đến một số rối loạn giấc ngủ khác như: ngừng thở khi ngủ, hội chứng chân không yên khi ngủ…
Với người bị chứng mất ngủ, thuốc ngủ có khả năng thúc đẩy giai đoạn đi vào giấc ngủ chỉ trong vòng 5-20 phút. Thuốc ngủ còn giúp cắt giảm số thời gian bạn bị thức tỉnh trong đêm và làm tăng tổng số thời gian ngủ sâu.
Ngoài ra, nếu cần hồi phục sau những sang chấn tinh thần nặng nề như cái chết của người thân, một bước ngoặt lớn của cuộc đời hoặc sự khởi đầu căng thẳng của công việc mới..., thuốc ngủ có thể thích hợpvới bạn trong một thời gian ngắn để giúp bạn vượt qua những stress và tránh các hậu quả về mặt tâm lý sau một đêm dài không ngủ được.
Tuy nhiên, về lâu dài, việc chỉ dựa vào những viên thuốc ngủ sẽ khiến bạn ngày càng ngủ ít đi và nổi thất vọng về giấc ngủ không ưng ý ngày càng tăng thêm. Một giấc ngủ sâu và cảm giác thức dậy trong sảng khoái sẽ dần trở thành quá mức xa xỉ với bạn.
Nếu chỉ một, hai đêm mất ngủ, uống thuốc ngủ có thể là giải pháp tạm thời tương đối tốt. Nhưng muốn điều chỉnh các rối loạn của giấc ngủ hoặc muốn chữa trị mất ngủ bằng thuốc ngủ thì hoàn toàn không phải là phương pháp thích hợp.
Bởi vì, uống thuốc ngủ lại là hình thức đối kháng lại giấc ngủ sâu, êm đềm và thư thái; trong khi có nhiều hình thức khác mang lại cho con người ta giấc ngủ ngon lành, no nê thì những viên thuốc ngủ chỉ để lại hậu quả làm cho người ta mất đi sức thức tỉnh về đêm khi con người không thể ngủ được.
Dùng thuốc ngủ - con dao hai lưỡi
Nhưng trên thực tế, việc lạm dụng thuốc ngủ là có thật và khá phổ biến. Rất nhiều người cứ bị mất ngủ là tự ý mua ngay thuốc ngủ về dùng. Với tình trạng buôn bán thuốc khá tự do như ở Việt Nam hiện nay thì việc mua thuốc ngủ chẳng có gì là khó khăn.
Đó là chưa kể đến những trường hợp người kỹ tính hơn về sức khỏe sẽ đi khám bác sỹ để chữa mất ngủ đều được kê toa thuốc ngủ. Nhiều thầy thuốc kê đơn thuốc ngủ giống như kiểu phản xạ tự động đầu tiên khi nghe bệnh nhân than phiền về rối loạn giấc ngủ hoặc để đề phòng trước chứng mất ngủ có thể xảy ra.
Một thống kê gần đây cho thấy, khoảng 50% bác sỹ ở tất cả các bệnh viện kê đơn có thuốc ngủ là do thói quen hơn là do nhu cầu của bệnh lý và khoảng 20% số bệnh nhân đó sau này sẽ trở nên phụ thuộc vào thuốc ngủ. Hơn nữa, khoảng 50% số bệnh nhân sử dụng thuốc ngủ để điều trị chứng mất ngủ đã xuất hiện những rối loạn tồi tệ hơn trước khi dùng thuốc.
Những lưu ý cần thiết khi dùng thuốc ngủ
Nếu bạn thấy uống thuốc ngủ vẫn còn hữu ích trong một số tình huống thì xin hãy tham khảo các gợi ý sau:
- Đừng bao giờ tự dùng thuốc ngủ hoặc dùng lại đơn thuốc ngủ mà không thông qua bác sĩ. Nên hỏi bác sĩ đã nắm được đặc điểm sinh lý của bạn, tiền sử bệnh lý và mối liên quan của thuốc đối với bạn. Như vậy khi dùng thuốc mà xảy ra tác dụng không mong muốn (tác dụng phụ), sự lệ thuộc vào thuốc hoặc các khó khăn khác, bạn đã có người để giúp giải quyết những vấn đề này.
- Nếu bác sĩ kê đơn thuốc ngủ cho bạn dường như theo thói quen, bạn có thể tự lựa chọn nhiều phương pháp khác.
- Đọc nhiều hơn, học nhiều hơn về tính chất dược lý của các loại thuốc ngủ qua sách vở, dược điển. Tránh dùng thuốc ngủ trước khi lái xe (ô tô, xe máy) một đoạn đường dài và trước khi có hoạt động căng thẳng. Các chất hóa học vẫn còn ở trong cơ thể bạn đến tận hôm sau và còn gây buồn ngủ.
- Không bao giờ kết hợp thuốc ngủ với rượu và với bất kỳ loại thuốc nào khác có ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh trung ương.
- Với người cao tuổi, liều thuốc ngủ chỉ bằng một nửa so với thanh niên.
- Đùng bao giờ cho trẻ dùng bất kỳ một loại thuốc ngủ nào.
- Không nên dùng thuốc cùng lúc với người bạn đời để lỡ có điều gì xảy ra thì còn một người tỉnh táo đương đầu với những bất trắc xảy ra trong đêm.
Theo Khiết Nhi - Sức khỏe gia đình


 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons