Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

Dùng thuốc điều trị mắt chứa corticoid

Thuốc điều trị mắt chứa corticoid đem lại lợi ích trong điều trị nhưng cũng dễ gây ra tai biến nếu dùng không đúng chỉ định, không đúng liều kéo dài.

Tác dụng không mong muốn từ thuốc điều trị mắt chứa corticoid
Từ thập niên 50 thế kỷ trước, thầy thuốc đã dùng corticoid đơn độc hay phối hợp trong các bệnh mắt như: viêm kết mạc dị ứng, viêm bờ mi, viêm màng bồ đào, viêm nội nhãn… 
Corticoid có tính chống viêm chống dị ứng, làm giảm rất nhanh các triệu chứng khó chịu, bệnh chóng khỏi, nên người bệnh rất thích. Tuy nhiên vì ham muốn cái lợi trước mắt, có người hễ cứ đau mắt là tự ý dùng, không cân nhắc kỹ lưỡng nên có thể gặp tai biến.
Corticoid gây ức chế miễn dịch làm giảm hay mất hẳn khả năng đề kháng của mắt. Trong các nhiễm khuẩn nặng, sự giảm khả năng đề kháng của corticoid sẽ làm giảm hiệu lực kháng sinh, nặng thêm bệnh. 
Trong các bệnh không do nhiễm khuẩn nhẹ, dùng đơn độc đúng liều đúng thời gian sẽ tốt song dùng liều cao kéo dài thì corticoid thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn nấm, gây đục thủy tinh thể, mờ mắt.
Corticoid gây tích tụ chất glycosaminoglycan, tăng sản xuất chất protein-TIGR (Trabercular meshowrk-Inducible Glucocortcoid Respone) làm bít các lỗ bè, dẫn tới tăng nhãn áp, gây bệnh glaucoma góc mở thứ phát. 
Tác dụng phụ này xuất hiện sau vài tuần với loại mạnh (predforte, solucort ophta, cebedex, dexacol), sau vài tháng với loại nhẹ (fluometholon); hay gặp hơn với dạng tra trực tiếp vào mắt, thứ đến là dạng tiêm nội nhãn, không mấy khi gặp ở dạng tiêm, uống, khí dung; hay gặp ở người có tiền sử gia đình bị glaucoma nguyên phát, bị cận thị cao, đái tháo đường, bệnh tổ chức liên kết. 
Biểu hiện rất kín đáo, hầu như không có triệu chứng cơ năng (không đau nhức, không đỏ mắt) nên người bệnh đến khám muộn, buộc phải phẫu thuật, sau đó chức năng thị giác rất kém; nếu không chữa sớm sẽ bị mù.
Dùng thuốc điều trị mắt chứa corticoidCorticoid cũng làm mỏng giác mạc. Nếu bị rách, lột giác mạc mà dùng thuốc tra mắt có chứa corticoid sẽ bị thủng.
Không phải bệnh mắt nào, thuốc điều trị mắt chứa corticoid nào cũng dùng được.
Loại thuốc nhỏ mắt đơn thuần chứa corticoid:
Trong các bệnh mắt không nhiễm khuẩn (ví dụ viêm kết mạc do dị ứng) dùng loại thuốc đơn thuần chứa corticoid dúng liều đúng thời gian (không quá 10 ngày) sẽ giảm viêm giảm dị ứng giảm các triệu chứng khó chịu nhanh chóng, song nếu dùng liều cao kéo dài thì sẽ bị các tác dụng phụ như nêu trên. 
Trong bệnh về mắt không do nhiễm khuẩn nhưng có rách loét giác mạc (ví dụ bị các vật lạ như: hạt thóc, bụi sắc) thì việc dùng các thuốc này sẽ làm mỏng, thậm chí làm thủng giác mạc.
Loại thuốc điều trị mắt kết hợp corticoid và kháng sinh:
Hiệu lực, tác dụng không mong muốn của loại biệt dược này thay đổi tùy theo tỉ lệ kết hợp giữa các thành phần. Tạm chia ra hai nhóm:
- Nhóm kháng sinh kết hợp với corticoid yếu hay có hàm lượng thấp thì tác dụng kháng viêm không mạnh nhưng lại có ưu điểm ít gây suy giảm miễn dịch.
- Nhóm kháng sinh kết hợp với corticoid mạnh hay có hàm lượng cao thì tác dụng kháng viêm mạnh nhưng có nhược điểm gây suy giảm miễn dịch mạnh.
Tác dụng phụ của kháng sinh khi phối hợp với thuốc điều trị mắt chứa corticoid
Trong thực tế, có khi dùng một biệt dược đơn chứa kháng sinh với biệt dược đơn chứa corticoid hoặc có khi dùng biệt dược kép kết hợp sẵn kháng sinh và corticoid.
Với thuốc điều trị mắt chỉ chứa kháng sinh đơn thuần:
Thường có các biệt dược: sufacollyre (sufacetamid 10-20-30%); dung dịch cloramphenicol (0,4%); mỡ tetracyclin (1%); rifamycin (thuốc nhỏ mắt 100mg/10ml, thuốc mỡ 50mg/5g); polydelzal (chloramphenicol + polymycin+naphazolin); ciprofloxacin (ciloxan thuốc điều trị mắt 0,3%); oflovid; vigamox (moxifloxacin); adevirus (moroxydin 50mg/ml), mỡ tra mắt acyclovir (3%).
Một số kháng sinh khi dùng toàn thân có phổ kháng khuẩn rất rộng nhưng khi nhỏ vào mắt với lượng nhỏ có thể không được như vậy; nếu dùng lâu dài sẽ làm tăng quá sản các chủng không nhạy cảm, gây kháng thuốc. 
Thí dụ thuốc mắt moxifloxacin dùng cho viêm kết mạc do nhiễm đa khuẩn nhưng nếu kéo dài lại gây sự bội nhiễm kể cả bội nhiễm nấm. Trong trường hợp này, nếu dùng thêm thuốc mắt chứa corticoid thì sự bội nhiễm càng tăng lên. 
Vì vậy, khi bị nhiễm khuẩn mắt, nên dùng kháng sinh đặc hiệu cho mỗi bệnh, khi cần mới dùng loại phổ rộng, với thời gian không quá 2 tuần, nếu không đáp ứng thì khám lại, thay thuốc.
Một số kháng sinh có thể gây tác dụng phụ tại chỗ. Ví dụ thuốc mắt moxifloxacin có thể làm giảm thị lực, khô mắt, viêm giác mạc, cương tụ, đau mắt, ngứa mắt, xuất huyết kết mạc; hay gặp khi khi dùng liều cao; sẽ hết khi ngừng thuốc. 
Trong trường hợp này nếu dùng thêm thuốc điều trị mắt chứa corticoid liều vừa đủ, thời gian ngắn sẽ có lợi nhưng nếu dùng liều cao thì sẽ làm giảm hiệu lực kháng sinh, đồng thời làm xuất hiện các tác dụng phụ của corticoid. Có khi không cần thiết phải phối hợp với thuốc điều trị mắt chứa corticoid mà chỉ cần dùng xen kẽ với thuốc có tính làm dịu cũng sẽ hạn chế sự khó chịu ở mắt.
Một phần thuốc đưa vào mắt sẽ theo mạch máu vào bên trong. Nếu dùng liều cao và /hoặc kéo dài quá 2 tuần thì lượng thuốc vào bên trong nhiều, đủ gây ra một số tác dụng phụ toàn thân như khi uống. Điều này dễ xảy ra với thuốc có sự thải trừ chậm, tích lũy. 
Một vài thuốc dễ gặp tác dụng phụ này thường có ghi rõ chống chỉ định (ngay trên lọ thuốc mắt). Ví dụ: không dùng thuốc nhỏ mắt chloramphenicol cho trẻ sơ sinh, người suy tủy; không dùng thuốc mắt cyclofloxacin cho người có thai, cho con bú.
Khi dang dùng thuốc mắt chứa kháng sinh, nếu có bệnh khác cần dùng thêm kháng sinh uống, tiêm thì cần chú ý tránh tương tác không lợi. Ví dụ khi dùng thuốc nhỏ mắt chloramphenicol thì không dùng gentamycin, tetracyclin, polimycin, cephalosporin.
Với các biệt dược kết hợp sẵn kháng sinh và corticoid:
Thường có các biệt dược: Chlorocid-H (hydroccortison + chloramphenicol); Dexalor, Dexacol, Spesadex (dexamethaosn + chloramphenicol); Polydeson (neomycin+ dexamethason); Maxitrol (dexametason + neomycin+ polymycin); Polidexa ophtalmicque (neomycin + polimycin B sulfat + dexametason metasulfobenzoat natri); Polidexan (dexamethason + chloramphenicol + naphazolin).
Dùng các biệt dược này tiện lợi nhưng vì tỉ lệ sự phối hợp các chất đã cố định nên việc cân nhắc khó hơn:
Khi sự phối hợp cố định phù hợp với yêu cầu chữa bệnh (kháng sinh đủ mạnh chống nhiễm khuẩn, corticoid chỉ ở mức kháng viêm, không giảm nhiều sức đề kháng) thì mới dùng, thực tế thường dùng trong một số bệnh nhẹ như: nhiễm khuẩn bán phần trước của mắt.
Khi sự phối hợp cố định không phù hợp với yêu cầu chữa bệnh (kháng sinh không đủ mạnh, lại bị corticoid khống chế, nên hiệu lực kháng khuẩn bị giảm). 
Trong các nhiễm khuẫn mắt nặng (viêm kết mạc do siêu vi, nhiễm nấm, tổn thương nhãn cầu do lao, loét giác mạc, củng mạc), nếu dùng loại biệt dược này thì sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho bệnh nặng thêm, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhiễm khuẩn thứ phát (bao gồm virút, nấm) làm chậm lành vết thương… từ đó có thể dẫn tới một số bệnh mắt khác (tăng áp lực nội nhãn tiến triển thành glaucoma, gây tổn thương thị giác).
Mấy lời kết
Tuy dùng tại chỗ, nhưng thuốc điều trị mắt không phải là thuốc dùng ngoài; lại có chứa corticoid, kháng sinh, yêu cầu phải dùng theo đơn. Khi có biểu hiện bất thường ở mắt, cần khám xác định đúng bệnh mới dùng thuốc, tránh dùng hú họa, tránh sự nhầm lẫn lạm dụng dẫn đến tai biến. 



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Các thuốc phòng và trị gút

Gút là bệnh rối loạn chuyển hoá, biểu hiện bằng các đợt viêm khớp cấp tính và lắng đọng natri urat trong các tổ chức do tăng acid uric máu. Các nguyên nhân làm tăng acid uric máu gồm: ăn nhiều thịt (đạm), thoái giáng acid nhân tế bào, tăng tổng hợp purin nội sinh và giảm đào thải acid uric ở thận.
Acid uric máu tăng cao làm các dịch trong cơ thể bão hoà natri urat, gây ra hiện tượng kết tinh urat tạo thành tinh thể trong một số tổ chức, đặc biệt là dịch khớp, sụn, xương, gân, tổ chức dưới da, nhu mô thận, đài bể thận. 
Sự kết tinh thành các tinh thể natri urat khi đạt đến một lượng nhất định sẽ gây ra viêm khớp (viêm khớp vi tinh thể) và gây ra cơn gút cấp tính. Biểu hiện khớp sưng to, nóng, đỏ, phù nề, căng bóng, đau dữ dội, va chạm nhẹ cũng gây đau tăng. 
Sự lắng đọng urat ở đài bể thận sẽ gây ra sỏi thận (gặp 10 - 20% số bệnh nhân), sỏi thường nhỏ và không cản quang. Lắng đọng urat trong nhu mô thận gây ra viêm thận kẽ, về sau tiến triển đến suy thận và là nguyên nhân tử vong của bệnh nhân gút.
Hình ảnh tổn thương khớp do gút.Hình ảnh tổn thương khớp do gút
Dùng thuốc nào?
Điều trị bao gồm điều trị cơn gút cấp và điều trị hội chứng tăng acid uric máu.
Khi có cơn gút cấp, cần phải điều trị bằng thuốc và thuốc chống viêm giảm đau tốt nhất được lựa chọn trong điều trị cơn gút cấp là colchicin. Thuốc được uống sau bữa ăn, liều lượng và số lần dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ. 
Cần lưu ý, thuốc có thể gây tiêu chảy, đau dạ dày, nôn mửa. Ngoài colchicin, có thể dùng các thuốc kháng viêm giảm đau nhóm không steroid (indomethacin, diclofenac, ibuprofen) nhưng tác dụng kém hơn. Corticoid làm giảm viêm nhanh nhưng ngừng thuốc lại đau trở lại, hơn nữa, corticoid làm tăng acid uric máu nên không dùng.
Điều trị hội chứng tăng acid uric máu, sử dụng thuốc làm giảm acid uric máu gồm nhóm thuốc làm giảm tổng hợp acid uric như allopurinol, thiopurinol, thuốc ức chế men xanthin oxydase làm giảm tạo thành acid uric. 
Thuốc ít tác dụng phụ nhưng có thể gặp phản ứng dị ứng, nổi mẩn da, rối loạn tiêu hóa. Nhóm thuốc làm tăng phân huỷ acid uric là uricozym, đây là một men urat oxydase được chiết xuất từ nấm aspegilus flavus có tác dụng làm thoái giáng acid uric thành allantoin. Allantoin có độ hòa tan gấp 10 lần so với uric và dễ dàng được thận đào thải. 
Uricozym làm giảm acid uric máu rất mạnh. Nhóm thuốc làm tăng đào thải acid uric qua nước tiểu như probenecid, sulfinpyrazon (anturan). Thuốc có thể gây phản ứng dị ứng, rối loạn tiêu hoá, chán ăn, buồn nôn, đau dạ dày, đi tiêu lỏng. 
Hai thuốc trên không được dùng đồng thời với aspirin liều nhỏ hoặc thiazid vì làm mất tác dụng đào thải acid uric. Vì thuốc làm tăng đào thải acid uric qua thận nên có thể làm tăng nguy cơ hình thành sỏi thận. Ngoài ra, cần phải kiềm hoá máu để làm tăng độ hoà tan của acid uric bằng uống các nước có kiềm (soda), thuốc viên nabica.
Phòng ngừa ra sao?
Điều quan trọng hơn là phải dự phòng cơn gút cấp tái phát bằng chế độ ăn và điều trị hội chứng tăng acid uric máu để luôn duy trì nồng độ acid uric máu trong giới hạn bình thường. Người ta thấy cơn gút cấp thường xảy ra sau bữa ăn nhiều thịt, rượu, chấn thương, kể cả đi giày chật. 
Vì vậy, người bị gút không nên ăn quá 0,8g đạm động vật/kg trọng lượng cơ thể/ngày. Ví dụ, người 50kg không nên ăn quá 40g đạm động vật/ngày. Một lạng thịt lợn nạc, thịt bò, cá có 20g đạm, vậy không ăn quá 2 lạng thịt động vật/ngày. 
Không uống rượu, bia, cần uống nhiều nước (>2lít/ngày), nên uống các loại nước có bicacbonat. Định kỳ kiểm tra acid uric máu, dùng thuốc làm giảm acid uric máu như allopurinol, uricozym để duy trì nồng độ acid uric máu trong giới hạn bình thường. Không nên sử dụng các thuốc gây tăng acid uric máu như thiazid, ethambuton, pyrazynamid, aspirin liều nhỏ.



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thận trọng với thuốc làm tăng nguy cơ trầm cảm

Nhìn chung, ngoài tác dụng chữa bệnh, các thuốc tân dược đều có những tác dụng phụ không mong muốn. Trong đó, một số thuốc có tác dụng phụ làm tăng nguy cơ trầm cảm.

Nhìn chung, ngoài tác dụng chữa bệnh, các thuốc tân dược đều có những tác dụng phụ không mong muốn. Trong đó, một số thuốc có tác dụng phụ làm tăng nguy cơ trầm cảm cho người dùng, đặc biệt đối với những người đang mắc bệnh trầm cảm cần hết sức lưu ý.
Thuốc chẹn beta dùng trong tim mạch
Nhóm thuốc chẹn beta (atenolol, metoprolol, propranolol, carvediol, satolol) dùng chữa tăng huyết áp, đau thắt ngực, điều hòa nhịp tim. 
Chúng có khả năng làm tăng trầm cảm do nhóm thuốc này chặn sự hoạt động của beta adrenergic nên ức chế sự hoạt động của norepinephrin - một chất dẫn truyền thần kinh. Cách khắc phục: thay các thuốc chẹn beta adrenergic bằng các thuốc khác.
Một số loại thuốc có tác dụng phụ tăng nguy cơ trầm cảm.Một số loại thuốc có tác dụng phụ tăng nguy cơ trầm cảm
Nhóm thuốc corticoid
Nhóm thuốc này có tác dụng kháng viêm, chống dị ứng và ức chế miễn dịch nên được dùng chữa trị nhiều bệnh như các bệnh về xương khớp, các bệnh tự miễn (như luput ban đỏ hệ thống). 
Corticoid làm giảm lượng serotonin (một chất dẫn truyền thần kinh), do đó, làm tăng trầm cảm (gồm các triệu chứng đơn lẻ hay kết hợp), biểu hiện ở người lớn với các triệu chứng thay đổi tính tình, lo lắng, sợ hãi, kích thích, cáu bẳn, hưng phấn hay lãnh đạm, thờ ơ, mất ngủ, li bì. 
Ở trẻ em hay có các rối loạn hành vi như nói lắp, quấy khóc. Dùng ngắn ngày có xu hướng bị hưng cảm; dùng dài ngày có xu hướng bị trầm cảm. Có 20 - 63% người lớn dùng corticoid kéo dài bị rối loạn này, trong đó, 6% ở mức nặng. Rối loạn nhận thức gồm thiếu hụt về trí nhớ, ngôn ngữ, lời nói.
Giải pháp khắc phục: Có thể thay thế bằng nhóm kháng viêm không steroid như aspirin, diclofenac, bằng thuốc chống dị ứng hay bằng các thuốc ức chế miễn dịch khác.
Nhóm an thần benzodiazepin
Nhóm thuốc này có tác dụng an thần, gây ngủ, thư giãn cơ bao gồm: diazepam (seduxen), alprazolam (xanax), lorazepam (ativan), temazepam, triazolam. Chúng làm tăng trầm cảm vì khi vào gan, chúng không được chuyển hóa hoàn toàn. 
Riêng người lớn tuổi, do sức khỏe sút kém dẫn đến thiếu một enzym chuyển hóa, kết quả là tích tụ lại gây độc. 
Mặt khác, trong cơ thể có hệ GABA- glutamic ở thế cân bằng động, trong đó glutamic làm tăng các hoạt động kích thích, GABA làm tăng các hoạt động ức chế. Benzodiazepin làm tăng hoạt động ức chế của GABA gây nên hiện tượng ức chế giống như trầm cảm.
Cách khắc phục: Nếu người trầm cảm bị kích thích khó ngủ, nên dùng các thuốc trầm cảm thuộc nhóm trầm cảm 3 vòng (TCA) có tính an thần như amitriptylin. 
Khi cần thiết, có thể phối hợp thuốc trầm cảm TCA với benzodiazepin như diazepam nhưng với liều thấp, trong thời gian ngắn, lúc mới dùng TCA. Bình thường, với các trường hợp khác, chỉ dùng benzodiazepin liều vừa đủ, không dùng quá 10 ngày.
Nhóm thuốc kích thích thần kinh
Nhóm này thường có methylphenidat (ritalin), modafinil (provigil) dùng điều trị chứng buồn ngủ quá mức ban ngày, buồn ngủ triền miên, ngủ rũ, chứng ngưng thở khi ngủ, chứng giảm tập trung tăng động (ADHD). 
Thuốc làm tăng trầm cảm do làm tăng hoạt động của hệ dopaminergic gây ra dạng trầm cảm có tính loạn thần (nay còn gọi là tâm thần phân liệt) với các triệu chứng âm tính giống như triệu chứng trầm cảm.
Cách khắc phục: Trong trường hợp bị trầm cảm, giảm sút năng lượng tâm thần do sự suy giảm các chất dẫn truyền thần kinh trong synap xuống dưới ngưỡng sinh lý bình thì phải dùng loại thuốc làm phục hồi lại các chất này đến ngưỡng sinh lý như thuốc trầm cảm 3 vòng (TCA), thuốc ức chế thu hồi chọn lọc serotonin (SSRI) hay thuốc ức chế monoaminooxydase (MAOI) mà không được dùng các thuốc kích thích thần kinh.
Nhóm thuốc statin chữa rối loạn lipid máu
Cholesterol là nguyên liệu tổng hợp nên các chất có cấu trúc sterol trong đó có các chất dẫn truyền thần kinh. Statin ức chế sự tổng hợp cholesterol chống rối loạn lipid máu cũng đồng thời làm giảm nguyên liệu tổng hợp chất dẫn truyền thần kinh. Khi thiếu hụt chất dẫn truyền thần kinh thì gây ra trầm cảm.
Cách khắc phục: Để điều trị rối loạn lipid máu, cần dùng chế độ ăn thích hợp, dùng các thuốc khác kết hợp với statin để không phải dùng statin đơn liều cao. Chỉ dùng statin trong khung liều khuyến cáo (cho từng thuốc trong nhóm). Sự tổng hợp cholesterol xảy ra tại gan vào ban đêm, nên uống vào bữa tối cho hiệu quả cao hơn.
Người bình thường, khỏe mạnh khi dùng các nhóm thuốc trên liều cao hoặc kéo dài thì có thể bị trạng thái trầm cảm, song khi giảm liều hoặc ngừng thuốc thì trạng thái trầm cảm ấy sẽ mất dần đi, không gây ra bệnh trầm cảm.
Người có sẵn các nguy cơ bị trầm cảm nếu dùng các thuốc này liều cao hoặc kéo dài thì chúng sẽ làm tăng thêm nguy cơ dễ xuất hiện bùng phát trầm cảm. Ví dụ: Bị bệnh tự miễn, kéo dài làm suy nhược lo âu chán nản, có sẵn nguy cơ trầm cảm, nếu lại dùng corticoid liều cao hoặc kéo dài sẽ dễ xuất hiện, bùng phát trầm cảm.
Người đã bị bệnh trầm cảm thì không được dùng các nhóm thuốc này vì các thuốc làm mất tác dụng của thuốc trầm cảm đang dùng, gây nên trạng thái trầm cảm làm cho bệnh nặng thêm.
Theo DS Hà Thủy Phước - Sức khỏe và Đời sống


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Nhược điểm cần lưu ý khi dùng thuốc hạ huyết áp

Coversyl (perindopril) là thuốc được dùng trong điều trị tăng huyết áp. Thuốc có hiệu lực ở mọi giai đoạn của bệnh tăng huyết áp như nhẹ, vừa và nặng.

Tác động hạ huyết áp tối đa từ 4 - 6 giờ sau khi dùng liều duy nhất và duy trì ít nhất trong 24 giờ. Thuốc dạng viên nên uống trước bữa ăn, uống một lần duy nhất trong ngày, vào buổi sáng. Trong trường hợp cần thiết, có thể phối hợp với thuốc lợi tiểu nhóm thiazide sẽ có tác dụng hiệp đồng nhằm tăng tác động hạ huyết áp. Và khi dùng phối hợp coversyl với thuốc lợi tiểu nhóm thiazide sẽ giảm nguy cơ hạ kali huyết so với khi chỉ dùng một mình thuốc lợi tiểu.
Cần lưu ý nhược điểm hay gặp nhất khi dùng thuốc này là gây ho khan. Ho khan có đặc tính dai dẳng và khỏi khi ngưng thuốc. Vì vậy, trong thời gian dùng thuốc, nếu ho khan cần nghĩ ngay đến nguyên nhân do thuốc. Tuy nhiên, nếu việc điều trị bằng thuốc này là cần thiết và ho có thể khắc phục được, có thể duy trì điều trị. 
Ngoài ra, thuốc có thể gây các hiện tượng như nhức đầu, suy nhược, cảm giác chóng mặt, rối loạn tính khí và/hoặc rối loạn giấc ngủ, vọp bẻ; phát ban ngoài da, chán ăn, buồn nôn, đau bụng, thay đổi vị giác. Hạ huyết áp theo tư thế cũng có thể xảy ra. 
Người bệnh cần thông báo cho bác sĩ biết về tất cả các tác dụng phụ mà mình gặp phải trong quá trình dùng thuốc. Vì nếu các tác dụng phụ nhẹ, có thể khắc phục được thì vẫn tiếp tục điều trị bằng thuốc này. Trường hợp tác dụng phụ nặng có thể sẽ phải thay thuốc. Và việc đổi thuốc này phải do bác sĩ quyết định, người bệnh không được tự ý ngừng dùng thuốc và đổi thuốc.
Theo DS. Nguyễn Thị An - Sức khỏe và Đời sống



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thận trọng khi dùng thuốc giảm đau trong thai kỳ

Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) vừa cho biết, cơ quan này nhận được báo cáo về những rủi ro với 3 loại thuốc giảm đau được sử dụng trong thai kỳ.

Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) vừa cho biết, cơ quan này nhận được báo cáo về những rủi ro với 3 loại thuốc giảm đau được sử dụng trong thai kỳ. Cụ thể:
Các thuốc giảm đau chống viêm không steroid (NSAIDs) bao gồm ibuprofen, naproxen, diclofenac và celecoxib có nguy cơ sẩy thai trong nửa đầu của thai kỳ.
Thuốc giảm đau opioid, nguy cơ gây dị tật bẩm sinh ở não, cột sống, hoặc tủy sống ở trẻ sinh ra từ những bà mẹ dùng các sản phẩm này trong ba tháng đầu của thai kỳ. Một số các opioid như oxycodone, hydrocodone, hydromorphone, morphine, codeine.
Thuốc giảm đau acetaminophen (paracetamol) và nguy cơ thiếu chú ý rối loạn tăng động (ADHD) ở trẻ em sinh ra từ những người phụ nữ dùng thuốc này bất cứ lúc nào trong khi mang thai. Acetaminophen là chất làm giảm đau và giảm sốt thường được tìm thấy trong hàng trăm loại thuốc được sử dụng cho các bệnh cảm lạnh, cảm cúm, dị ứng...
Tuy nhiên, sau khi đánh giá các nghiên cứu này, FDA xác định các số liệu còn rất hạn chế để có thể đưa ra bất kỳ khuyến cáo nào dựa trên những nghiên cứu tại thời điểm này. 
Vì sự không chắc chắn này nên việc sử dụng các thuốc giảm đau trong thời kỳ mang thai cần được xem xét một cách cẩn thận. FDA khuyên phụ nữ mang thai luôn luôn trao đổi về tất cả các loại thuốc với các chuyên gia chăm sóc sức khỏe của mình trước khi sử dụng chúng.
Đau trong quá trình mang thai có thể do những tình trạng cấp tính như tổn thương hoặc nhiễm khuẩn, hoặc do bệnh lý kèm theo như viêm khớp dạng thấp. Cơn đau dai dẳng nếu được xử trí không thích hợp có thể gây nên tình trạng trầm cảm và lo lắng và tăng huyết áp ở người mẹ. 
Điều này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm sinh lý của người phụ nữ và có thể gây ảnh hưởng không tốt cho thai kỳ. Vì vậy, các thuốc giảm đau trên có thể giúp điều trị các cơn đau dữ dội và dai dẳng này. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải cân nhắc cẩn thận những lợi ích và nguy cơ của việc sử dụng thuốc theo đơn và thuốc giảm đau OTC (không kê đơn) trong thời kỳ mang thai.
Hiện FDA vẫn đang tiếp tục theo dõi và đánh giá việc sử dụng thuốc giảm đau trong thời kỳ mang thai và sẽ cập nhật thông tin mới khi có đủ dữ liệu.
Theo Kim Thủy - Sức khỏe và Đời sống


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Kháng sinh có thể gây tác hại cho hệ tiêu hóa

Khi sử dụng kháng sinh không có sự kiểm soát, chỉ định của bác sĩ điều trị thì chúng có thể gây ra các tác dụng phụ như: buồn nôn, nôn, chán ăn.

Việc sử dụng kháng sinh một cách tùy tiện, bừa bãi của người dân đã dẫn đến tình trạng mầm bệnh kháng lại với thuốc kháng sinh. Đồng thời, chúng có thể gây nên những phản ứng có hại về tiêu hóa mà người dùng không lường trước được.
Mặc dù kháng sinh là loại thuốc được quy định bán theo đơn của bác sĩ điều trị, nhưng thực tế hiện nay chúng có thể mua được khá dễ dàng tại các nhà thuốc, hiệu thuốc do công tác quản lý còn lỏng lẻo.
Phản ứng có hại về tiêu hóa của kháng sinh
Khi sử dụng kháng sinh không có sự kiểm soát, chỉ định của bác sĩ điều trị thì chúng có thể gây ra các tác dụng phụ như: buồn nôn, nôn, chán ăn... nhưng thường đáng lo ngại nhất là phản ứng đi tiêu chảy; có khi có trường hợp xảy ra khá nặng vì kháng sinh có thể làm viêm ruột non, ruột già nhầy có màng giả. Nguyên nhân gây nên tình trạng đi tiêu chảy do sử dụng kháng sinh:
Kháng sinh có thể kích thích trực tiếp lên niêm mạc ruột non, ruột già làm gia tăng tiết chất nhầy và phát sinh ra các màng giả. Tác dụng kháng khuẩn phổ rộng của kháng sinh làm đảo lộn vi khuẩn chỉ ở ruột, tiêu diệt cả vi khuẩn thường trú cần thiết của môi trường ở ruột già và gây ra tình trạng loạn khuẩn ruột. 
Các loại kháng sinh mạnh có tác dụng tiêu diệt phần lớn những vi khuẩn gây bệnh, còn những vi khuẩn tồn tại là những chủng loại đã có độ kháng mạnh với các kháng sinh đó nên việc tiêu diệt chúng sẽ rất khó khăn; đặc biệt trong các trường hợp tiêu chảy nặng vì viêm ruột già nhầy có màng giả do kháng sinh thường phát sinh chủng loại vi khuẩn Clostridium difficile không những khó nuôi cấy vi khuẩn mà còn khó tiêu diệt chúng. 
Ngoài ra còn có sự phát sinh thêm nấm, thường là loại Candida albicans cũng do môi trường sinh thái của ruột bị đảo lộn.
Phản ứng có hại của một số loại kháng sinh
Tùy theo từng loại kháng sinh, phản ứng có hại gây nên ở hệ tiêu hóa có sự khác biệt nhau giữa các loại.
Nhóm beta-lactam như: ampicillin thường gây tiêu chảy nên các nhà khoa học đã khuyến cáo không nên dùng loại thuốc này bằng đường uống. Một nghiên cứu về những trường hợp bị tiêu chảy do sử dụng kháng sinh ghi nhận có đến 50% các trường hợp do sử dụng kháng sinh nhóm beta-lactam và 18% các trường hợp cấy phân phát hiện loại vi khuẩn Clostridium difficile tiết độc tố. 
Thuốc cephalosporin có đặc điểm bài tiết mạnh qua đường mật; đặc biệt là loại moxalactam, ceftriaxon, cefoperazon... cũng gây khoảng 25% các trường hợp bị tiêu chảy. 
Thực tế cho thấy tổn thương bệnh lý xảy ra nặng nhất là viêm trực tràng nhầy có màng giả mà tiên lượng xấu hay tốt tùy thuộc vào sự ngừng thuốc sớm hay muộn, tuổi tác và cơ địa của người bệnh; đồng thời có sự phát triển thêm của loại vi khuẩn Clostridiun difficile hay không. Xử trí các trường hợp tiêu chảy này nên dùng thuốc đặc hiệu vancomycin uống ít nhất 2 tuần.
Phát sinh nấm Candida albicans thường do môi trường sinh thái của ruột bị đảo lộn
Phát sinh nấm Candida albicans thường do môi trường sinh thái của ruột bị đảo lộn
Thuốc tetracyclin có thể gây tiêu chảy đơn thuần hoặc cộng thêm các triệu chứng toàn thân. Phản ứng có hại này thường gặp trong mấy ngày đầu sau khi dùng thuốc, có khi xảy ra rất nặng với các biểu hiện sốt cao, tụt huyết áp, choáng; đôi khi có biểu hiện bệnh lý do nấm Candida gây ra ở vùng hậu môn, trực tràng.
Nhóm macrolid có thể gây nên những phản ứng có hại được biểu hiện tại hệ tiêu hóa thường gặp nhất trong các phản ứng của cơ thể đối với nhóm kháng sinh này và chiếm tỉ lệ từ 5 - 30%. 
Phản ứng có hại ghi nhận tùy thuộc vào liều lượng thuốc được dùng trong ngày, thời gian dùng thuốc dài hay ngắn và loại thuốc thuộc nhóm macrolid sử dụng. Các loại thuốc thuộc nhóm macolid mới như: josamycin, midecamycin, roxithromycin... ít gây phản ứng có hại cho hệ tiêu hóa hơn là loại thuốc cũ erythromycin, spiramycin.
Nhóm lincosamid như: thuốc lincomycin, clindamycin cũng gây nên những phản ứng có hại đối với hệ tiêu hóa tương tự nhóm macrolid; triệu chứng đi tiêu chảy cũng là phản ứng chính của nhóm thuốc này. 
Bệnh lý gây nên thường gặp là viêm trực tràng, đại tràng nhầy có màng giả mà nguyên nhân chủ yếu là do sự xuất hiện của vi khuẩn Clostridium difficile với mức độ khác nhau, các nhà khoa học ghi nhận có thể chiếm tỉ lệ từ 0,01 - 10%.
Nhóm fluoroquinolon như: các loại thuốc norfloxacin, ofloxacin, pefloxacin, ciprofloxacin, enoxacin... là nhóm ít có phản ứng có hại nhất đối với hệ tiêu hóa, chỉ xảy ra với tỉ lệ từ 0,8 - 6,8% ở những người dùng thuốc. 
Triệu chứng chủ yếu là buồn nôn, chán ăn ở mức độ nhẹ và chỉ thoáng qua. Triệu chứng nôn và đi tiêu chảy ít xảy ra và rất hiếm khi gặp các trường hợp viêm đại tràng, trực tràng nhầy có màng giả.
Thuốc co-trimoxazol ít gây phản ứng có hại ở hệ tiêu hóa, nếu gặp chủ yếu là các trường hợp nhẹ với triệu chứng nôn, buồn nôn chiếm tỉ lệ khoảng 3%; đi tiêu chảy thường ít gặp hơn với tỉ lệ khoảng 0,6%. Phản ứng có hại gây viêm đại tràng, trực tràng nhầy có màng giả cũng rất hiếm gặp.
Nhóm nitro-imidazol như: các loại thuốc metronidazol, timidazol, secnidazol... thường gây ra các tác dụng ngoại ý về tiêu hóa nhưng rất nhẹ và không bắt buộc phải ngừng thuốc.
Phản ứng có hại viêm ruột non, ruột già nhầy có màng giả cần được quan tâm
Viêm ruột non, ruột già nhầy có màng giả là một phản ứng có hại, một tai biến thường xảy ra nặng khi sử dụng một số loại thuốc kháng sinh thuộc nhóm beta-lactam, lincosamid và macrolid. 
Phản ứng có hại này thường xảy ra từ 4 - 10 ngày sau khi bắt đầu dùng thuốc kháng sinh thể hiện với triệu chứng đi tiêu chảy toàn nước, có một ít phân và máu, kèm theo nhiều chất nhầy và màng giả; đồng thời người bệnh bị sốt và đau quặn bụng.
Chẩn đoán bệnh lý được xác định bằng phương pháp nội soi đại tràng với hình ảnh ghi nhận được là có những mảnh rải rác màu vàng nhạt với bờ rớm máu. Sinh thiết các mảnh bệnh lý này thấy các tuyến bị hoại tử với những dịch tiết đầy fibrin và bạch cầu. 
Nếu nuôi cấy mảnh sinh thiết hoặc chất dịch có thể phát hiện thấy chủng vi khuẩn Clostridium difficile, một loại trực khuẩn gram dương kỵ khí có khả năng tiết ra hai loại độc tố: độc tố A gây ra phản ứng viêm và chảy máu ở ruột non, ruột già; độc tố B tác động lên tế bào ruột.
Việc xử trí điều trị phản ứng có hại hay tai biến này chủ yếu bằng cách ngừng ngay việc dùng loại kháng sinh gây ra biến cố; bồi phụ nước và điện giải bằng đường uống hoặc đường tiêm truyền; sử dụng loại thuốc kháng sinh vancomycin uống với liều lượng 500mg mỗi lần, dùng 4 lần trong ngày cách nhau 6 giờ và uống liên tiếp trong 10 ngày có thể là biện pháp hiệu quả, nhanh nhất để chữa trị phản ứng có hại này. Ngoài ra có thể uống thuốc metrodazole hay bacitracin theo chỉ định của bác sĩ điều trị.



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thiếu vitamin D làm tăng bệnh tim mạch

Vitamin D đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe tim mạch. Nó cũng giúp cho tim giữ nhịp đập đều đặn. Có thể kiểm soát được bệnh tim mạch nhờ lượng vitamin D đầy đủ trong cơ thể.


Vitamin D là chất rất cần thiết cho sự hấp thụ calci và giữ cho xương luôn chắc khỏe. Nhưng vitamin D cũng đóng vai trò quan trọng trong rất nhiều khía cạnh khác nhau của sự trao đổi chất. Một vài nghiên cứu gần đây đã chỉ ra nếu cơ thể không có đủ vitamin D, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe tim mạch của bạn.
Chỉ cần thiếu chút ít lượng vitamin D đáp ứng nhu cầu cơ thể là đủ để tăng gấp đôi nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quỵ cũng như các vấn đề khác về tim ở những người có tiền sử mắc bệnh huyết áp cao từ 5 năm trở lên. Đây là nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại họcHarvard (Boston, Mỹ) vừa công bố.
Trưởng nhóm nghiên cứu, TS Thomas Wang, Đại học Y Harvard (Boston, Mỹ) đã theo dõi 1.739 người, có độ tuổi trung bình 59, trong vòng 5 năm. Những người tham gia nghiên cứu đều không có tiền sử về bệnh tim mạch.
TS Wang nhận thấy, những người có mức vitamin D thấp sẽ tăng tới 60% nguy cơ gặp các vấn đề liên quan đến tim mạch như đột quy, nhồi máu cơ tim so với những người có đủ mức vitamin D đáp ứng nhu cầu cơ thể. Ngoài ra, họ cũng dễ mắc các bệnh tiểu đường, cholesterol cao và huyết áp cao.
Hiện ngày càng có thêm nhiều bằng chứng cho thấy thiếu vitamin D có liên quan đến rối loạn mạch vành, tử vong do suy tim và đột tử do bệnh tim. Hơn nữa, tỷ lệ vitamin D thấp còn có thể tăng gấp đôi nguy cơ bệnh tim ở những bệnh nhân đái tháo đường. Hàm lượng vitamin D thấp hạn chế quá trình cholesterol ở bệnh nhân tiểu đường - tạo ra quá nhiều cholesterol trong mạch máu, do đó tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ.
Theo nghiên cứu mới đây của Ludwigshafen Risk và Cardiovascular Health đã cho thấy vitamin D3 có thể giảm tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch. 
Căn cứ theo sự phân loại này, một quá trình theo dõi (khoảng 7,7 năm) đã được thực hiện trên 1801 người để kiểm tra xem tỷ lệ vitamin D có liên quan đến tỷ lệ tử vong do tim mạch hay không. Trong quá trình theo dõi, 462 ca tử vong được ghi nhận, 267 trường hợp (57,8%) trong số đó có nguồn gốc bị tim mạch.
Kết quả cho thấy những người có tỷ lệ vitamin D3 tối ưu giảm 75% nguy cơ tử vong do tất cả các nguyên nhân và trong đó có nguyên nhân tim mạch so với những người thiếu hụt nghiêm trọng. 
Các nhà khoa học cũng nhận thấy tỷ lệ đột tử cũng giảm 85% ở những người có mức vitamin D3 tối ưu so với những người bị thiếu hụt nghiêm trọng. Các bệnh về tim mạch và tỷ lệ tử vong do suy tim sung huyết cũng giảm đáng kể.
Bổ sung vitamin D bằng cách nào?
Hấp thụ vitamin qua thực phẩm là cách tốt nhất, nhưng vitamin D chỉ có trong 1 số loại thực phẩm như cá hồi, cá ngừ, cá mòi, sữa và các ngũ cốc bổ sung vitamin D.
Ánh nắng mặt trời là cách hiệu quả để hấp thụ vitamin D nhiều hơn. Nhiều người phơi nắng không thoa kem chống nắng từ 5-10 phút mỗi ngày để cơ thể có đủ vitamin D. Tuy nhiên, bạn nên phơi nắng trong thời gian ngắn bởi các tia mà kích thích sản sinh vitamin D cho cơ thể có thể gây cháy nắng và ung thư da.



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons