Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

Tiêu chảy vì dùng nhiều kháng sinh

Khi sử dụng thuốc kháng sinh lâu ngày sẽ tiêu diệt các vi khuẩn có lợi trong cơ thể, tạo điều kiện cho các virus xâm nhập gây bệnh tiêu chảy…

Mắc bệnh vì lạm dụng kháng sinh
Chị Nguyễn Thu Hà, (40 tuổi, ở Q.5, TPHCM) mắc bệnh viêm loét dạ dày, tá tràng nhiều năm nay nhưng chữa mãi không khỏi, chị đành sống chung với bệnh. Một lần đi làm về bất ngờ gặp tại nạn ngã rách chân.
Nghĩ rằng chỉ bị trầy xước ngoài da vài ngày sẽ khỏi nên nên chị chủ quan không đi khám bác sĩ mà nhờ người thân trong gia đình ra hiệu thuốc mua về một ít thuốc, kháng sinh, chống viêm về dùng.
Uống hết một đợt thuốc (5 ngày) mà vết thương vẫn chưa khỏi hẳn. Chị Hà liền tăng lên một loại thuốc kháng sinh mới kháng khuẩn mạnh hơn. 
Trong quá trình dùng thuốc trị bệnh, chị Hà thường xuyên bị tiêu chảy, người mệt mỏi, nhưng chị cứ tưởng do mình ăn phải cái gì đó nhiễm độc, lạnh bụng, rồi mới mắc bệnh tiêu chảy, chỉ cần không ăn uống linh tinh thì bệnh tình khác tự khỏi, nên chị vẫn tiếp tục dùng thuốc kháng sinh trị cảm cúm, cho tới khi lả người vì mất nước do tiêu chảy chị phải nhập viện truyền nước bổ sung chị mới té ngửa mình bị tiêu chảy là do dùng thuốc kháng sinh không đúng.
Với trường hợp như chị Thu Hà kể trên, DS Lê Thị Thanh (Công ty Dược IMS Việt Nam) cho biết: Bình thường trong đường ruột chúng ta luôn tồn tại một quần thể vi khuẩn lành tính với nhiều loài khác nhau, các loại vi khuẩn này duy trì thế cân bằng giúp kích thích quá trình tiêu hóa, hấp thu dinh dưỡng thải độc cơ thể, và khống chế các loại vi khuẩn gây hại xâm nhập đường ruột gây tiêu chảy, các bệnh về đường ruột.
Tuy nhiên, khi người bệnh uống quá nhiều thuốc kháng sinh, đặc biệt là những bệnh nhân đã có tiền sử các bệnh về đường tiêu hóa như; rối loạn tiêu hóa, viêm loét dạ dày, tá tràng…
Khi sử dụng một hoặc nhiều loại kháng sinh mạnh, với liều cao, kéo dài, thì các loài vi khuẩn lành tính nói trên cũng bị kháng sinh tiêu diệt, phá vỡ thế cân bằng gây ra hiện tượng loạn khuẩn, do đó thúc đẩy sự phát triển của các chủng vi khuẩn gây bệnh có sẵn trong đương ruột hoặc mới xâm nhập từ bên ngoài không khí vào, dẫn tới chứng tiêu chảy hoặc viêm ruột, tiêu chảy.
Hóa giải nguy cơ tiêu chảy do kháng sinh
DS Lê Thị Thanh (Công ty Dược IMS Việt Nam) cho biết thêm, những người gầy ốm suy dinh dưỡng, có bệnh lý khác kèm theo, khi dùng kháng sinh phổ rộng, liều cao, kéo dài có thể gây ra tình trạng tiêu chảy nặng hơn, được gọi là viêm đại tràng giả mạc.
Trong trường hợp này, các biểu hiện có thể gặp bao gồm: tiêu chảy, phân nhiều nước và có thể có máu; đau bụng; buồn nôn và nôn, sốt. 
Trong hầu hết các trường hợp tiêu chảy do kháng sinh là không có sốt, triệu chứng tự hết sau khi ngừng kháng sinh; trong khi tiêu chảy do các nguyên nhân nhiễm khuẩn người bệnh đều có dấu hiệu sốt, mức độ tiêu chảy nặng hơn, kèm theo các biểu hiện tiêu hóa khác như nôn, đau bụng.
Thông thường, với những trường hợp nhẹ, bệnh tiêu chảy sẽ hết khi người bệnh ngừng sử dụng kháng sinh nhưng đối với một số trường hợp bệnh tình diễn biến phức tạp sẽ gây ra những biến chứng nguy hiểm như mất nước, mất chất điện giải (chủ yếu là natri và kali) khiến cơ thể suy nhược, khô miệng, háo nước. Với những bệnh nhân có tiền sử bệnh dạ dày tá tràng, gây tổn thương niêm mạc của ruột già có thể dẫn đến một lỗ thủng trên thành đường ruột.
Khi bị tiêu chảy vì kháng sinh, người bệnh nên nhất thiết uống nhiều nước, chọn thức ăn mềm, dễ tiêu hóa như tinh bột, bánh mỳ, các loại khoai… tránh các loại đồ uống có đường, nước uống có gas hoặc caffeine, trà …
Không ăn các loại thực phẩm có tính kích thích, những thức ăn cay, béo hoặc các loại thực phẩm chiên.
Nên chia nhỏ bữa ăn từ 4-5 bữa/ngày với số lượng ít, thay vì ăn 3 bữa chính với lượng thực ăn quá nhiều.
Bên cạnh đó, người bệnh nên tránh các loại thực phẩm nhiều chất xơ như đậu, rau quả. Nếu cảm thấy triệu chứng được cải thiện, lúc đó mới từ từ thêm chất vào chế độ ăn uống.
Nếu đã áp dụng các chế độ trên mà vẫn bị tiêu chảy thì người bệnh nên đi khám chữa. Các bác sĩ sẽ căn cứ vào thể trạng và bệnh tình của bệnh nhân mà kê toa thích hợp.
Thuốc kháng sinh dùng đúng mới tốt
DS Lê Thị Thanh (Công ty Dược IMS Việt Nam) cũng khuyến cáo, bất kỳ loại kháng sinh nào cũng có thể gây ra sự mất cân bằng vi khuẩn trong cơ thể, nhất là các kháng sinh phổ rộng hiện nay. Các loại kháng sinh hay gây tiêu chảy nhất là Ampicillin, các Cephalosporin, Erythromycin và Clindamycin.
Thuốc kháng sinh nếu sử dụng không đúng sẽ đưa đến tác hại rất lớn như gây tai biến cho cơ thể như dị ứng, nhiễm độc các cơ quan, loạn khuẩn đường ruột làm tiêu chảy, làm mất sức đề kháng của cơ thể, nghiêm trọng nếu sử dụng thuốc kháng sinh bừa bãi sẽ gây hiện tượng vi khuẩn đề kháng lại kháng sinh. Chỉ sử dụng kháng sinh khi thật sự bị bệnh nhiễm khuẩn và có chỉ định cụ thể của bác sĩ.
Nên lựa chọn đúng loại kháng sinh, bệnh nào loại đó không nên tự ý mua thuốc uống. Những đối tượng đặc biệt như phụ nữ có thai, đang cho con bú, người già, người bị suy gan, suy thận, người viêm loét dạ dày, tá tràng, người có tiền sử mắc các bệnh mãn tính khác càng phải đặc biệt thận trọng khi dùng kháng sinh.



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc giảm đau tăng nguy cơ dị tật thai nhi

Nghiên cứu mới đây cho thấy thuốc giảm đau chứa codeine và morphine có thể làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh.

Cụ thể, các nhà nghiên cứu đã phát hiện nhóm thuốc giảm đau Opioid có khả năng cao làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh về não, cột sống và tim mạch. Thậm chí cũng có thể dẫn đến nguy cơ sinh non nếu bà mẹ dùng thuốc giảm đau trong thời kỳ mang thai.
Mặt khác, sử dụng thuốc giảm đau có chứa các thành phần này khi mang thai có thể gây ra tình trạng bé bị cai sơ sinh (NAS), một hội chứng bệnh ngày càng tăng ở nhiều bệnh viện Mỹ.
Các thuốc giảm đau, trong đó bao gồm thành phần codeine, oxycodone, hydrocodone hoặc morphine, thường được quy định để điều trị các cơn đau mà không đáp ứng tiêu chuẩn an toàn cao bằng các loại thuốc giảm đau như aspirin, ibuprofen và paracetamol.
 Thuốc giảm đau nhóm Opioid tăng nguy cơ dị tật thai nhi.
Thuốc giảm đau nhóm Opioid tăng nguy cơ dị tật thai nhi.
Thuốc giảm đau nhóm Opioid có nguồn gốc từ thuốc phiện và một số chất gây nghiện cũng có thể gây ra một số tác dụng phụ như buồn nôn và gây ngủ.
Nghiên cứu này được thực hiện bởi Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC), đã phát hiện hơn một phần tư phụ nữ dùng thuốc giảm đau Opioid dựa trên từ năm 2008 đến năm 2012.
GĐ Tom Frieden, CDC, cho biết: "Dùng thuốc giảm đau nhóm Opioid sớm trong thai kỳ có thể gây dị tật bẩm sinh và các vấn đề nghiêm trọng khác với mẹ và trẻ sơ sinh. Nhiều phụ nữ đang dùng loại thuốc này và có thể không biết rằng họ đang mang thai, do đó có thể vô tình hại thai nhi trong bụng".
Tại Mỹ, cứ 4 phút 30 giây lại có một trẻ sơ sinh sinh ra với hội chứng dị tật bẩm sinh, 1 trong 5 trường hợp tử vong 1 năm sau khi chào đời là do dị tật bẩm sinh.
Hội chứng cai nghiện ở trẻ sơ sinh (viết tắt là NAS) là một nhóm các vấn đề xảy ra ở trẻ sơ sinh tiếp xúc thụ động với các chất gây nghiện, chất kích thích khi còn trong bụng mẹ.
Hội chứng cai nghiện ở trẻ sơ sinh xảy ra do phụ nữ mang thai dùng các loại chất gây nghiện như: Amphetamine; ma túy; cần sa.
Các triệu chứng của hội chứng cai nghiện ở trẻ xuất hiện còn phụ thuộc vào loại chất kích thích mà mẹ sử dụng; Sử dụng bao nhiêu loại thuốc; sử dụng các loại thuốc, chất kích thích trong khoảng thời gian bao lâu; những triệu chứng có thể bao gồm tiêu chảy, khóc nhiều, sốt, phản xạ hiếu động, dễ bị kích thích...



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Để dùng thuốc qua đường tiêu hóa hiệu quả

Trong điều trị bệnh thì dùng thuốc bằng phương pháp uống thuốc qua đường tiêu hóa là phổ biến. Vậy có những cách uống nào và cách dùng đúng ra sao để thuốc đạt hiệu quả cao nhất…

Nuốt thuốc: Đa số các loại thuốc viên (viên nén, viên nang, viên bao tan trong ruột) đều sử dụng cách thức nuốt cùng với nước. Khi nuốt thuốc cần phải nuốt nguyên viên thuốc, mà tuyệt đối không được nhai hoặc bóc lớp vỏ ngoài của thuốc ra để uống. 
Bởi nếu nhai hoặc tháo vỏ viên thuốc ra uống dược chất sẽ bị phân hủy ngay ở dạ dày, mà không được hấp thu ở ruột non sẽ làm giảm hoặc mất tác dụng của thuốc.
Khi uống thuốc viên, nên uống ở tư thế đứng và phải uống thuốc với nhiều nước, còn nếu nằm uống thuốc mà lại không uống nước thì thuốc dễ lưu lại lâu ở thực quản có thể gây loét niêm mạc nơi thuốc tiếp xúc (thực quản). 
Vết thương này có thể gây ra xuất huyết khi thức ăn đi qua chỗ lở loét. Nghiêm trọng hơn có thể gây ra xuất huyết, kích thích đầu mút ở thần kinh, gây đau đớn. Chỗ loét do thuốc gây ra thường rất khó chữa trị, đôi lúc phải phẫu thuật.
Để dùng thuốc qua đường tiêu hóa hiệu quảCần dùng thuốc đúng cách để đạt hiệu quả điều trị cao nhất. Ảnh: M.H
Cần lưu ý, nước dùng để uống thuốc nên là nước đun sôi để nguội mà không dùng nước trà, hoa quả hay sữa để uống thuốc (vì những nước này có thể sẽ gây ra phản ứng hóa học làm giảm hiệu lực của thuốc hoặc những tương tác bất lợi cho cơ thể). Thông thường nên uống thuốc với một cốc nước to (khoáng 150 - 200ml).
Nhai thuốc: Ngoài việc nuốt thuốc, ngậm thuốc thì một số thuốc lại cần nhai trước khi uống mới có tác dụng chữa bệnh. Đó là những loại thuốc kháng axit chữa loét dạ dày. Các thuốc này nên được nhai nát trước khi nuốt và chỉ cần uống với một ít nước thôi. Khi vào dạ dày thuốc sẽ tan rất nhanh, có tác dụng phủ lên vết loét trong dạ dày.
Đối với thuốc trị chứng khó tiêu có chứa than thảo mộc, canxi carbonat, canxi phosphat... cũng cần được nhai nát và uống với nước để tăng cường hấp phụ chất khí, chất độc, trung hòa các dịch tiết ở dạ dày.
Ngậm thuốc: Bên cạnh việc uống thuốc thì một số laoị thuốc lại cần ngậm trong miệng như  các loại thuốc dùng để chữa ho, một số thuốc chữa đau thắt ngực, thuốc chữa tăng huyết áp…
Cách dùng: Để thuốc vào miệng ngậm (hoặc dưới lưỡi) để thuốc tan ra từ từ. Nếu nuốt chửng thuốc hiệu quả chữa trị sẽ giảm đi rất nhiều.
Với những trường hợp đang bị đau thắt ngực, tăng huyết áp thì nuốt chửng thuốc viên lại không mang lại hiệu quả nhanh bằng ngậm dưới lưỡi. Tuy nhiên, thông thường người bệnh tăng huyết áp sử dụng cách nuốt thuốc, vì vậy trong trường hợp lúc nào nên ngậm thuốc cần có chỉ định của bác sĩ.
Theo DS Hoàng Thu Thủy  - Sức khỏe và Đời sống


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

Tương tác bất lợi giữa thuốc hạ áp và giảm mỡ máu

Ở những người bệnh lớn tuổi, béo phì thường mắc cả hai loại bệnh tăng huyết áp và mỡ máu cao. Do đó thường phải dùng cả thuốc hạ áp và thuốc hạ mỡ máu.

Tuy nhiên hai loại thuốc này nếu được dùng chung thì sẽ có những tác hại. Gần đây, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) đã có những cảnh báo về tương tác giữa hai loại thuốc này.
Tương tác bất lợi giữa thuốc hạ áp và giảm mỡ máu
Người bệnh mắc cùng lúc tăng huyết áp và mỡ máu cao cần được theo dõi chặt chẽ khi dùng phối hợp thuốc
Tác dụng của 2 loại thuốc là gì?
Amlodipin là dẫn chất của dihydropyridin có tác dụng chẹn calci qua màng tế bào. Amlodipin ngăn chặn kênh calci loại L phụ thuộc điện thế, tác động trên các mạch máu ở tim và cơ. 
Thuốc có tác dụng chống tăng huyết áp bằng cách trực tiếp làm giãn cơ trơn quanh động mạch ngoại biên và ít có tác dụng hơn trên kênh calci cơ tim. Vì vậy thuốc không làm dẫn truyền nhĩ thất ở tim kém đi và cũng không ảnh hưởng xấu đến lực co cơ.
Amlodipin cũng có tác dụng tốt là giảm sức cản mạch máu thận, do đó làm tăng lưu lượng máu ở thận và cải thiện chức năng thận. Vì vậy thuốc cũng có thể dùng để điều trị người bệnh suy tim còn bù.
Amlodipin không có ảnh hưởng xấu đến nồng độ lipid trong huyết tương hoặc chuyển hóa glucose, do đó có thể dùng amlodipin để điều trị tăng huyết áp ở người bệnh đái tháo đường. 
Ở nhiều nước, điều trị chuẩn để bảo vệ người bệnh tăng huyết áp khỏi tai biến mạch máu não và tử vong vẫn là thuốc chẹn beta và thuốc lợi tiểu. 
Tuy vậy, amlodipin có thể dùng phối hợp với thuốc chẹn beta cùng với thiazid hoặc thuốc lợi tiểu quai và cùng với thuốc ức chế enzym chuyển đổi angiotensin. Amlodipin có tác dụng tốt cả khi đứng, nằm cũng như ngồi và trong khi làm việc. Vì amlodipin tác dụng chậm, nên ít có nguy cơ hạ huyết áp cấp hoặc nhịp nhanh phản xạ.
Simvastatin là thuốc hạ cholesterol được dùng để điều trị tăng cholesterol huyết nguyên phát hoặc rối loạn lipid huyết hỗn hợp, dưới dạng hỗ trợ cho chế độ ăn uống, khi sự đáp ứng với chế độ ăn uống và các biện pháp điều trị khác không dùng thuốc (tập thể dục, giảm cân) vẫn chưa đủ.
Simvastatin được dùng trong điều trị tăng cholesterol huyết thể đồng hợp tử có tính gia đình như một sự hỗ trợ cho chế độ ăn uống và các biện pháp làm giảm lipid khác (như: gạn tách LDL) hoặc khi các biện pháp này không thích hợp; điều trị tăng triglycerid huyết. 
Thuốc cũng làm giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong do bệnh tim mạch ở bệnh nhân có bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch hoặc bệnh đái tháo đường, với mức cholesterol bình thường hoặc tăng cao.
Khi nào thì 2 thuốc gây tương tác xấu?
Tháng 8/2012, Cơ quan Quản lý Dược phẩm Anh (MHRA) đã khuyến cáo về việc bổ sung chống chỉ định sử dụng đồng thời simvastatin với cyclosporin, danazol và gemfibrozil. 
Ngoài ra, liều khuyến cáo tối đa của simvastatin khi sử dụng phối hợp với amlodipin và diltiazem cũng thay đổi. Khuyến cáo này xuất phát từ quan ngại về khả năng tăng nguy cơ mắc các bệnh cơ và/hoặc tiêu cơ vân do tương tác của simvastatin với các thuốc này.
Liều tối đa của simvastatin được khuyến cáo khi dùng đồng thời với amlodipin là 20mg/ngày; không cần thiết phải thay đổi liều của amlodipin và diltiazem.
Cơ sở khoa học để MHRA đưa ra yêu cầu giới hạn liều dùng này bao gồm:
Nồng độ simvastatin trong máu tăng lên khi sử dụng đồng thời với amlodipin do tương tác thuốc thông qua enzym CYP3A4. 
Tỷ lệ xuất hiện bệnh cơ tăng khi sử dụng liều cao simvastatin cùng với amlodipin, so với khi dùng các mức liều simvastatin thấp hơn hoặc khi không phối hợp simvastatin với amlodipin hoặc diltiazem.
Tác dụng làm giảm cholesterol máu có thể đạt được tới khoảng 75% hiệu quả tối đa khi sử dụng các mức liều thấp của simvastatin và chỉ tăng thêm 6% khi tăng gấp đôi liều simvastatin (từ 20mg/ngày lên 40mg/ngày). 
Do chưa có thêm chứng cứ, mức liều khuyến cáo tối đa của simvastatin (20mg/ngày) được áp dụng khi dùng đồng thời với amlodipin ở cả hai mức liều amlodipin 10mg/ngày và 5mg/ngày.
Theo DS Sỹ Thành - Sức khỏe và Đời sống



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Tuyệt đối không dùng những thuốc sau khi sốt xuất huyết

SXH gây ra các rối loạn, đặc biệt ở mạch máu - máu. Việc dùng thuốc nhằm để cân bằng lại các rối loạn đó và chống lại các triệu chứng bất lợi. 
Tuy nhiên phải dùng đúng thuốc, nếu dùng sai thuốc hoặc dùng các thuốc chống chỉ định với bệnh SXH thì sự rối loạn ấy sẽ tiến triển theo hướng xấu khiến bệnh trầm trọng thêm, thậm chí nguy hiểm tính mạng.
Tuyệt đối không dùng những thuốc sau khi sốt xuất huyết
Sơ đồ truyền bệnh SXH từ muỗi
Thông thường bệnh nhân SXH phải nhập viện và điều trị theo phác đồ của thầy thuốc. Tuy nhiên có những trường hợp mới chớm mắc bệnh, chưa được chẩn đoán SXH, thường tự điều trị tại nhà, dễ dùng phải những thuốc bất lợi cho bệnh SXH. 
Do vậy, mọi người đều cần biết những thuốc thông thường nào không được dùng cho người bệnh SXH, để có ý thức dùng thuốc, nhất là dân cư vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long như bạn.
Các thuốc không được dùng khi mắc SXH là:
Aspirin: có tác dụng hạ sốt, giảm đau. Trong SXH có hiện tượng chảy máu. Aspirin ngăn sự tập kết tiểu cầu, chống đông máu nên làm cho việc chảy máu do SXH gây ra không cầm được (nhất là xuất huyết đường tiêu hóa). 
Kết quả làm cho bệnh trầm trọng thêm. Do vậy, trong SXH, không được dùng aspirin cho cả người lớn và trẻ em. 
Riêng với trẻ em càng tuyệt đối cấm dùng vì: aspirin là yếu tố thúc đẩy gây hội chứng Reye (phù não và suy gan nhiễm mỡ với tỷ lệ tử vong khoảng 30 - 50%, nếu sống sót cũng để lại di chứng tổn thương não vĩnh viễn). 
Aspirin làm tăng độ acid (vốn thấp ở dạ dày trẻ), gây bỏng rát viêm đường tiêu hóa, nặng hơn gây xuất huyết đường tiêu hóa.
Nhóm thuốc kháng viêm không steroid: đa số các thuốc trong nhóm như: diclofenac, diffunisal, fenoprofen, flurbiprofen, ibuprofen, indomethacin, ketoprofen, mefenamic acid, naproxen, piroxacam... cũng có tác dụng hạ nhiệt và giảm đau, giảm viêm. 
Tuy không làm ngưng tập kết tiểu cầu mạnh như aspirin nhưng các kháng viêm không steroid đều có tính này (với các mức độ khác nhau) nên cũng làm cho việc chảy máu trong SXH khó cầm. Do vậy không dùng nhóm thuốc này trong điều trị SXH.
Thuốc kháng sinh: SXH do virut gây ra mà kháng sinh lại để diệt vi khuẩn, không có tác dụng trong điều trị SXH. Dùng kháng sinh nhằm làm yếu virut, tạo điều kiện thuận lợi cho kháng thể tiêu diệt virut bằng cách thực bào. 
Trong SXH, kháng thể tiêu diệt ngược lại làm cho virut phát triển (như nói trên) nên việc dùng kháng sinh không có ý nghĩa. Hơn nữa, trong SXH, máu bị cô đặc, dùng nhiều kháng sinh bao vây sẽ làm cho nồng độ kháng sinh trong máu cao, dễ gây tai biến.
Theo DS Thanh Hoài - Sức khỏe và Đời sống



ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc mới kỳ diệu điều trị ung thư phổi

Vừa qua, các nhà khoa học đã tìm ra một loại thuốc mới điều trị bệnh ung thư phổi, phương pháp này sẽ giúp cho bệnh nhân tăng gấp đôi khả năng sống của mình.


Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Như đã biết, ung thư phổi là loại ung thư nguy hiểm nhất giết chết gần 1,6 triệu người trên thế giới mỗi năm. Bệnh rất khó chữa trị vì nó thường được phát hiện muộn và với nhiều người hút thuốc lá thì việc phẫu thuật không thích hợp để được tiến hành. 
Hiệp hội Ung thư học lâm sàng Mỹ vừa công bố kết quả nghiên cứu trên 582 người, cho biết thuốc Nivolumab có khả năng chặn đứng các tế bào ung thư ẩn trong cơ thể người bệnh.
Thông thường, hệ thống miễn dịch có nhiệm vụ phòng thủ và bảo vệ cơ thể chống nhiễm trùng, nếu gặp sự cố, nó sẽ tấn công các bộ phận trong cơ thể, chẳng hạn tế bào ung thư
Tuy nhiên, các khối u có khả năng sống sót là nhờ chúng sản xuất ra một loại protein có tên PD-L1, loại protein này có thể dập tắt bất kỳ phần nào của hệ miễn dịch đang cố tấn công chúng. Nivolumab được phát triển bởi các công ty dược, được xem như "chất ức chế trạm kiểm soát". 
Nivolumab có thể chặn đứng chức năng dập tắt hệ miễn dịch của các tế bào ung thư, vì vậy giúp cơ thể tiếp tục hoạt động tấn công khối u.
Nivolumab có thể chặn đứng khả năng dập tắt hệ miễn dịch của các tế bào ung thư
Nhiều cuộc thử nghiệm đã được tiến hành trên cơ thể những bệnh nhân ung thư nặng và những người đã cố gắng thử các phương pháp điều trị khác nhau ở châu Âu và Mỹ. 
Kết quả cho thấy những người đang điều trị thông thường chỉ sống thêm được khoảng 9,4 tháng, trong khi những người sử dụng Nivolumab sống trung bình được 12,2 tháng. Một số bệnh nhân có kết quả ấn tượng hơn khi sống được đến 19,4 tháng. 
Đó là những người có khối u sản xuất ra hàm lượng PD-L1 cao. Những dữ liệu này được đưa ra bởi Công ty dược phẩm Bristol-Myers Squibb.
TS Luis Paz-Ares, trưởng nhóm nghiêm cứu của BV Universitario Doce de Octubre tại Madrid (Tây Ban Nha) cho biết kết quả này ghi dấu một cộc mốc quan trọng trong việc phát triển những phương pháp điều trị mới cho bệnh ung thư phổi. 
Nivolumab là chất ức chế PD-1 đầu tiên cho thấy sự cải thiện đáng kể tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư. Hiện nay các công ty khác cũng đang nghiên cứu những loại thuốc tương tự. TS Martin Forster đến từ Viện Ung bướu của ĐH London (Anh) đang thử nghiệm chúng. 
Ông chia sẻ với BBC rằng loại thuốc này sẽ đem đến những thay đổi mới trong việc điều trị bệnh ung thư phổi. Các nghiên cứu về bệnh ung thư của nước Anh cũng nhấn mạnh việc khai thác hệ thống miễn dịch là một phần tất yếu của điều trị ung thư. 
TS Alan Worsley cũng cho biết việc điều trị ung thư bằng cách chặn đứng tế bào ung thư từ hệ miễn dịch có thể là hướng tốt hơn so với các biện pháp hóa trị hiện tại.
Thuốc mới điều trị ung thư phổi đang mang lại hy vọng lớn cho bệnh nhân. Các nhà khoa học mong muốn nó cũng sẽ phát huy tác dụng ở những dạng bệnh ung thư khác. 
Hiện nay Nivolumab đã được phê duyệt là thuốc đặc trị cho khối u ác tính ở Mỹ. Tuy nhiên, vẫn còn những câu hỏi lớn đươc đặt ra như hậu quả lâu dài của việc sửa đổi hoạt động của hệ miễn dịch là gì và cách nào tốt nhất để tìm ra những người phù hợp với việc điều trị. 
Ngoài ra, phương pháp điều trị này cũng rất tốn kém. Đây là những thách thức lớn cho ngành y tế.
Theo Xã luận

ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thận trọng khi sử dụng thuốc hướng thần

Hiểu và tránh các nguy cơ khi sử dụng thuốc chứa valproat là hết sức cần thiết đối với các thầy thuốc và người bệnh.
Thận trọng đặc biệt khi sử dụng thuốc hướng thần
Mẹ dùng valproat khi mang thai dễ sinh con bị sứt môi, hở hàm ếch. (ảnh minh họa)
Đối với bé gái, trẻ vị thành niên nữ, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và phụ nữ có thai khi sử dụng thuốc chứa valproat trong điều trị động kinh, rối loạn tâm thần lưỡng cực hoặc dự phòng cơn đau nửa đầu cấp cần được khởi đầu điều trị và giám sát chặt chẽ bởi bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm. 
Chỉ nên sử dụng thuốc này khi các biện pháp điều trị khác không có hiệu quả hoặc bệnh nhân không dung nạp được. Việc cân bằng giữa lợi ích và nguy cơ của thuốc nên được các bác sĩ chuyên khoa đánh giá cẩn thận trong mỗi lần thăm khám định kỳ. 
Tốt nhất nên kê đơn thuốc chứa valproat dưới dạng đơn trị liệu và ở liều điều trị thấp nhất có hiệu quả. Nếu có thể, nên sử dụng dưới dạng giải phóng kéo dài để tránh nồng độ đỉnh trong huyết tương cao. Liều hàng ngày nên được chia ít nhất thành hai liều đơn.
Không dùng thuốc để dự phòng cơn đau nửa đầu cấp trong các trường hợp sau: dự phòng cơn đau nửa đầu cấp ở phụ nữ mang thai hoặc phụ nữ trong độ tuổi sinh sản không sử dụng các biện pháp tránh thai hiệu quả trong suốt thời gian điều trị bằng thuốc chứa valproat. Cần loại trừ phụ nữ có thai trước khi bắt đầu điều trị bằng valproat.
Thận trọng đặc biệt khi sử dụng thuốc hướng thần
Báo cáo mới đây kết luận rằng, trẻ sinh ra từ những bà bầu dùng thuốc sodium valproate có nguy cơ mắc các rối loạn tâm thần. Ảnh: BBC
Không nên dùng thuốc chứa valproat cho bé gái, trẻ vị thành niên nữ, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và phụ nữ có thai trừ khi các biện pháp điều trị khác không có hiệu quả. 
Valproat có khả năng cao gây quái thai và tiềm tàng nguy cơ rối loạn phát triển ở trẻ từng bị phơi nhiễm valproat trong thời gian người mẹ mang thai. 
Bác sĩ nên đánh giá cẩn thận hiệu quả và nguy cơ của thuốc trong mỗi lần thăm khám định kỳ cho bệnh nhân, khi bệnh nhi đến tuổi dậy thì, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản đang được trị bằng thuốc chứa valproat có kế hoạch mang thai hoặc vừa có thai.
Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản bắt buộc phải dùng các biện pháp tránh thai có hiệu quả trong suốt thời gian điều trị. Bác sĩ cần thông báo cho bệnh nhân các nguy cơ liên quan tới việc sử dụng thuốc chứa valproat trong thai kỳ.
Tuyệt đối không dùng thuốc chứa valproat để dự phòng cơn đau nửa đầu cấp ở phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang ở độ tuổi sinh sản không sử dụng các biện pháp tránh thai trong suốt thời gian điều trị bằng valproat hoặc khi các biện pháp điều trị khác vẫn có hiệu quả.
Bệnh nhân nữ có kế hoạch mang thai cần cố gắng chuyển sang các biện pháp điều trị khác thay thế trước khi thụ thai nếu có thể.
Theo BS Bảo Thư - Sức khỏe và Đời sống


ĐIỀU TRỊ BỆNH CỘT SỐNG - THẦN KINH THEO PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨNHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons