Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2015

Thuốc điều trị nhồi máu cơ tim

Nhồi máu cơ tim (NMCT) là tình trạng một vùng cơ tim bị tổn thương, hoại tử và ngưng hoạt động vĩnh viễn, do các động mạch vành bị tắc nghẽn làm ngưng đột ngột sự cung cấp máu đến nuôi cơ tim. 
Các thuốc được sử dụng trong điều trị NMCT giúp nhanh chóng khôi phục lưu thông máu ở động mạch vành, giảm đau và giảm nhu cầu tiêu thụ oxy ở mô cơ tim.
Nguyên nhân và triệu chứng nhồi máu cơ tim
Có hai nguyên nhân chính làm tắc nghẽn động mạch vành gây ra NMCT:
- Do xơ vữa động mạch vành (nguyên nhân chủ yếu gây ra NMCT): sự tích tụ các chất béo (cholesterol, triglycerid) và canxi trong lòng động mạch vành, hình thành nên những mảng xơ vữa. 
Các mảng xơ vữa này sẽ làm thành động mạch vành dày lên, kém đàn hồi, cứng và làm giảm lưu lượng máu đến tim, gia tăng nguy cơ hình thành huyết khối ở động mạch vành, làm ngưng cung cấp máu đến cơ tim.
- Do co thắt động mạch vành làm ngưng cung cấp máu đến cơ tim.
Ngoài ra, còn có nhiều yếu tố nguy cơ gây ra NMCT như:
Hút thuốc lá.
Béo phì, ít vận động.
Lượng cholesterol và triglycerid trong máu cao.
Tiền sử gia đình bị nhồi máu cơ tim...
Cơ tim bị tổn thương
Cơ tim bị tổn thương
Các triệu chứng điển hình của nhồi máu cơ tim:
- Đau ngực, cơn đau có thể lan lên hàm và xuyên ra sau lưng hoặc lan xuống tay trái. Trong trường hợp hiếm: đau ở vùng thượng vị gây nhầm lẫn với các bệnh khác.
- Khó thở, thở gấp.
- Đổ mồ hôi, da lạnh.
- Buồn nôn, nôn.
- Mệt mỏi, căng thẳng, lo lắng.
- Chóng mặt, hôn mê...
NMCT đưa đến các biến chứng: loạn nhịp tim, suy tim, tổn thương van tim, rung thất… và có thể dẫn đến tử vong.
Thuốc điều trị nhồi máu cơ tim
Khi NMCT xảy ra, các động mạch vành ngưng cung cấp máu đến nuôi cơ tim, các mô cơ tim bị thiếu oxy dẫn đến tổn thương, hoại tử và ngưng hoạt động.
Nhóm thuốc kháng kết tập tiểu cầu (aspirin, clopidrogel. ticagrelor…) có tác dụng ngăn chặn sự kết dính các tiểu cầu để hình thành huyết khối ở động mạch vành.
Aspirin thường được sử dụng ở dạng thuốc viên với hàm lượng 81mg.
Clopidrogel được sử dụng thay thế aspirin khi người bệnh bị dị ứng với aspirin hay có tiền sử viêm loét dạ dày-tá tràng.
Nhóm thuốc chống đông máu: heparin được sử dụng ở dạng tiêm truyền tĩnh mạch, có tác dung làm loãng máu, ngăn chặn quá trình đông máu hình thành huyết khối.
Nhóm thuốc nitrat (glyceryl trinitrat, isosorbid dinitrat, isosorbid mononitra)là những thuốc có tính giãn mạch, giúp tăng lưu lượng máu qua động mạch vành, cung cấp đủ máu và oxy cho cơ tim.
Nhóm thuốc chẹn beta (atenolol, propanolol, bisopropol…) có tác dụng làm chậm nhịp tim, thư giãn cơ tim nên làm giảm gánh nặng hoạt động của tim và làm giảm triệu chứng đau ngực của NMCT.
Nhóm thuốc ức chế men chuyển (captopril, enalpril…) là những thuốc có tác dụng giãn mạch, tăng cường tốc độ lưu thông máu … nên thường được sử dụng trong điều trị NMCT.
Nhóm thuốc statin (lovastatin,simvastatin, atorvastatin…) có tác dụng làm giảm cholesterol trong máu, ngăn chặn xơ vữa động mạch vành gây ra NMCT.
Nhóm thuốc giảm đau opioid: morphin là thuốc giảm đau nhóm opioid thường được sử dụng để làm giảm đau và giảm nhu cầu tiêu thụ oxy ở mô cơ tim trong NMCT.
Cần lưu ý:
- Các thuốc được sử dụng trong điều trị NMCT phải được sự chỉ định và theo dõi của các thầy thuốc chuyên khoa.
- Người bệnh phải tuân theo sự chỉ định chặt chẽ của thầy thuốc, tránh ngưng sử dụng thuốc đột ngột.
- Sau lần đầu tiên điều trị NMCT, người bệnh nên tiếp tục sử dụng bốn nhóm thuốc mỗi ngày (thuốc kháng kết tập tiểu cầu, thuốc chẹn beta, thuốc ức chế men chuyển, thuốc statin) để phòng ngừa tái phát NMCT.
Đối với bệnh NMCT, việc phòng ngừa là hết sức quan trọng. Cần tránh các yếu tố nguy cơ, như: không hút thuốc lá (thuốc lá gây co thắt các mạch máu và gia tăng xơ vữa động mạch vành), kiểm soát huyết áp và đường huyết, chế độ dinh dưỡng nhiều rau quả, ít chất béo. Cần tăng cường luyện tập thể dục, thể thao, tránh béo phì...
Nhồi máu cơ tim là một bệnh lý tim mạch thường xảy ra, gây nguy cơ tử vong cao nếu không được cấp cứu kịp thời!
Theo DS Mai Xuân Dũng - Sức khỏe và Đời sống





NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Cảnh giác với các loại thuốc có thành phần thuốc phiện

Thuốc có thành phần chứa thuốc phiện có nhiều loại nhưng thông thường hay sử dụng nhiều các thuốc như terpincodein để trị rối loạn tiết phế quản, trị các chứng ho long đờm hay opizoic dùng trong tiêu chảy, đặc biệt là morphin là loại thuốc gây nghiện khi mua phải có đơn mặc dù có công hiệu giảm đau rất tốt thường dùng trị đau trong ung thư...
Tuy nhiên, khi sử dụng chúng không hề đơn giản, vì trong thành phần đều chứa hoạt chất của thuốc phiện. Terpicodein thành phần gồm terpin hydrate, codeine base. 
Vì có thuốc phiện nên thuốc chống chỉ định sử dụng cho trẻ em dưới 5 tuổi, bệnh nhân suy hô hấp, hen suyễn và tránh dùng chung với thuốc có chứa atropin, cồn và các thuốc ho khác, phụ nữ có thai và cho con bú. Thuốc cũng có tác dụng không mong muốn như gây táo bón, buồn ngủ, chóng mặt, buồn nôn, co thắt phế quản, dị ứng da...
Opizoic là loại viên nén gồm cao opi (10% morphin) 5mg, long não 2mg, acide benzoic 10mg, tinh dầu hồi 1mg. Thuốc được dùng để cầm tiêu chảy, giảm đau và có tác dụng trị triệu chứng. Thuốc có tác dụng giảm nhu động ruột, giảm tiết dịch vị, gây táo bón. 
Tuy nhiên, do thuốc chứa thuốc phiện nên xếp vào loại thuốc độc bảng A, phải có chỉ định của bác sĩ. Không dùng cho trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ có thai hay đang cho con bú.
Thuốc giảm đau morphin
Thuốc giảm đau morphin
Đặc biệt, morphin - loại thuốc giảm đau gây nghiện (opiat) là một alcaloid có hàm lượng cao nhất (10%) trong nhựa khô quả cây thuốc phiện, về mặt cấu tạo có chứa nhân piperridin-phenanthren. 
Morphin tác dụng chọn lọc và trực tiếp lên tế bào thần kinh trung ương, nhất là vỏ não với nhiều trung khu bị ức chế như trung khu đau, trung khu hô hấp, trung khu gây ho... Nhưng có trung khu lại bị kích thích nên gây nôn, co đồng tử, chậm nhịp tim...
Bởi vậy, khi sử dụng những chế phẩm thuốc phiện đều có tiềm năng độc hại của các chất chủ vận opiat nên khi dùng phải hết sức thận trọng. 
Dùng nhắc lại nhiều lần có thể gây lệ thuộc thuốc, nhờn thuốc và nghiện thuốc. Vì vậy, người bệnh phải hết sức cẩn thận khi sử dụng các loại thuốc này trong trị bệnh, tốt nhất nên dùng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Theo BS Hoàng Thanh Sơn - Sức khỏe và Đời sống





NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317



Những loại thuốc “cấm” dùng trong kỳ kinh nguyệt

Để tránh rối loạn kinh nguyệt, xuất huyết quá nhiều, chị em cần lưu ý dùng thuốc khi chuẩn bị và đang trong kỳ kinh.

Thuốc hoóc-môn tình dục

Sự tổng hợp và cân bằng trao đổi chất của hoóc-môn giới tính nữ có liên quan chặt chẽ tới chu kỳ kinh nguyệt. Do vậy, trong kỳ nguyệt san, bạn không nên sử dụng thuốc hoóc-môn kích thích chuyện ấy, để tránh bị rối loạn kinh nguyệt.

Thuốc trị viêm nhiễm phụ khoa

Trong kỳ nguyệt san, màng nhầy tử cung xung huyết, miệng tử cung mở rộng, rất dễ bị viêm nhiễm.


Thuốc chống đông máu

Thuốc chống đông máu có thể khiến cho nguyệt kinh kéo dài, lượng máu kinh cũng nhiều hơn. Bởi vậy, trong kỳ kinh nguyệt, XX nên tránh sử dụng thuốc chống đông máu như heparin, coumarin…

Thuốc nhuận tràng

Thuốc nhuận tràng dễ dẫn đến xung huyết vùng chậu, nên tránh dùng trong kỳ nguyệt san, các thuốc nhu động dạ dày ruột cũng không nên dùng trong thời gian này.

Thuốc nội tiết

Tổng hợp và cân bằng trao đổi chất của hoóc-môn trong cơ thể có liên quan chặt chẽ tới chu kỳ nguyệt san. Do vậy, trong kỳ nguyệt san không thể sử dụng thuốc kích thích hoóc-môn, để tránh mất cân bằng.

Thuốc cầm máu

Thuốc cầm máu như Andel, vitamin K, có thể giảm tính thấm mao mạch, thúc đẩy sự co lại của mao mạch, sau khi sử dụng khiến cho lượng máu kinh không ra đều và mịn như bình thường.

Thuốc giảm béo

Trong thuốc giảm béo có chứa thành phần ngăn chặn sự thèm ăn, nếu dùng trong kỳ kinh nguyệt, có thể dẫn đến rối loạn nguyệt san, nước tiểu nhiều hoặc bài tiết khó, hoặc xuất hiện tâm lý hoảng loạn, lo âu, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến vô kinh.




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317


Vì sao gây mê có thể tử vong?

Một trong những nguyên nhân gây tử vong là tác dụng phụ của thuốc gây mê. Tác dụng phụ này thường xảy ra ở trẻ sơ sinh, nhũ nhi, người lớn tuổi do hệ miễn dịch suy yếu...

Vậy, những đối tượng nào có thể gặp nguy hiểm trong quá trình gây mê?

Ai dễ gặp biến chứng khi gây mê?

TS.BS Nguyễn Thị Thanh, Chủ nhiệm bộ môn Gây mê - hồi sức Đại học Y Dược và Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch TPHCM - cho biết: kỹ thuật gây mê ra đời đã góp phần thành công trong các cuộc phẫu thuật phức tạp như: mổ tim, mổ gan, ghép tạng… Tuy nhiên, cũng như nhiều loại thuốc khác, thuốc gây mê có những tác dụng phụ, gây ra tai biến.

Một cuộc khảo sát trên 200.000 bệnh nhân được gây mê ở Pháp cho thấy, cứ 13.200 ca sẽ có một ca chết; tỷ lệ này sẽ cao hơn ở các nước đang phát triển. 

Cũng theo một nghiên cứu ở Pháp vào năm 2006, bệnh nhân tử vong trong gây mê thì biến chứng đường hô hấp chiếm 38% và tim mạch chiếm 61% (bao gồm: sốc phản vệ, thiếu máu cơ tim, giảm thể tích tuần hoàn, giảm lượng máu, tụt huyết áp).

Những cuộc phẫu thuật lớn bắt buộc phải gây mê - (ảnh chụp tại BV Nhi Đồng 2)

Một trong những nguyên nhân gây tử vong là tác dụng phụ của thuốc gây mê. Tác dụng phụ này thường xảy ra ở trẻ sơ sinh, nhũ nhi, người lớn tuổi do hệ miễn dịch suy yếu; đặc biệt là trên những người mắc bệnh nặng, có nguy cơ cao như: bệnh tim (van tim, mạch vành), tiểu đường, bệnh về máu, hen suyễn, bệnh phổi, viêm phổi tắc nghẽn mạn tính. Mặt khác, sự lựa chọn thuốc gây mê trên những bệnh nhân này cũng bị giới hạn.

Ở người bệnh bình thường (không mắc bệnh lý mạn tính), BS dễ dàng lựa chọn thuốc gây mê ít tác dụng phụ.

Với bệnh nhân mổ tắc ruột, viêm ruột thừa… (thường bị mất nước, ói mửa nhiều, tiêu chảy) dễ dẫn đến giảm thể tích tuần hoàn, mạch co lại để cung cấp máu cho các cơ quan quan trọng, nên BS sẽ không sử dụng các loại thuốc gây mê có tác dụng dãn mạch mà chỉ giới hạn trong các loại thuốc có tác dụng co mạch. Tuy nhiên, những loại thuốc này có tác dụng phụ nhiều hơn.

Hoặc ở những bệnh nhân bị sốc mất máu, sốc nhiễm trùng, sốc tim, BS thường dùng những loại thuốc gây mê liều cao; điều này đồng nghĩa với nguy cơ tác dụng phụ nhiều hơn. Dù đã có nhiều loại thuốc gây mê mới, hạn chế các tác dụng phụ, nhưng chưa thể thay thế hoàn toàn các loại thuốc gây mê thế hệ cũ.

ThS.BS Phan Thị Minh Tâm, Trưởng khoa Phẫu thuật gây mê - hồi sức, BV Nhi Đồng 2 - chia sẻ: "Nếu những bệnh nhân có tiền căn dị ứng trứng gà, đậu phộng… thì BS sẽ tránh sử dụng các loại thuốc gây mê như người bệnh bình thường. Tuy nhiên, không phải ca nào BS cũng đánh giá được hết các nguy cơ xảy ra cho người bệnh".

Tử vong do sốc phản vệ


Đặc biệt, có những trường hợp người bệnh chưa từng bị dị ứng với thuốc, không mắc các bệnh nguy hiểm, nhưng vẫn xảy ra rủi ro khi thực hiện gây mê. ThS.BS Phan Thị Minh Tâm dẫn chứng, những bệnh nhân mắc các bệnh tiềm ẩn như bị sốt cao ác tính do gen, khi thực hiện gây mê thì bệnh này mới bùng phát và tử vong rất nhanh. Những trường hợp sốc phản vệ, rối loạn nhịp tim với thuốc gây mê dễ dẫn đến tử vong.

Biến chứng thường xảy ra ở giai đoạn bắt đầu gây mê, vài giờ đầu sau gây mê và lúc bệnh nhân chờ hồi tỉnh. Có những trường hợp, sau khi mổ bệnh nhân đã có vẻ tỉnh, nhưng cơ thể chưa thải hết thuốc mê ra ngoài, khiến bệnh nhân dễ rơi vào tình trạng hôn mê trở lại và dẫn đến tử vong.

Ngoài tác dụng phụ của thuốc gây mê, người bệnh còn đối diện với tác dụng phụ của nhiều loại thuốc khác hỗ trợ trong quá trình gây mê như: thuốc vận mạch, thuốc co mạch, thuốc dãn mạch, thuốc tăng co bóp cơ tim…

Thiếu nhân lực

Tai biến trong quá trình gây mê còn do không đủ BS đảm bảo chuyên môn. Nếu BS gây mê không cho thuốc mê đủ liều lượng, nồng độ cũng khiến bệnh nhân "thức giấc giữa chừng" và tâm sinh lý bị xáo trộn. 

Những tình huống này rất nguy hiểm, người bệnh bị đau dẫn đến huyết áp tăng vọt, thiếu máu cơ tim, vỡ mạch máu… và tử vong. 

Ngược lại, nếu BS cho thuốc quá liều sẽ khiến tình trạng hôn mê sau mổ không hồi tỉnh, tử vong. Vì cơ chế của thuốc gây mê sâu là nhằm ức chế tim mạch, tuần hoàn cơ thể, mạch máu; do đó, nếu ức chế quá lâu thì tim mạch sẽ ngừng đập…

Để kiểm soát được mức độ mê do thuốc gây ra, một số bệnh viện đã trang bị máy đo độ mê nông hay sâu, nhưng vì đắt tiền nên rất ít bệnh viện trang bị.

TS.BS Nguyễn Thị Thanh khẳng định: "Đội ngũ BS gây mê hiện nay đang thiếu và yếu". Nhiều bệnh viện trên địa bàn TPHCM chỉ có cử nhân gây mê, điều dưỡng gây mê, một BS gây mê phải luân chuyển ba-bốn phòng mổ; nhiều trường hợp BS điều trị kiêm luôn khâu gây mê.

Ngay tại một bệnh viện hạng I, mỗi ngày tiếp nhận gần 3.000 bệnh nhân đến khám, nhưng chỉ có ba BS gây mê hồi sức. 3 BS này phải chia nhau làm việc suốt 24 giờ, "canh" cho 20 bệnh nhân đang thở máy, 35 bệnh nhân chờ tỉnh sau quá trình phẫu thuật gây mê.

Theo TS.BS Nguyễn Thị Thanh, ngành gây mê thiếu nhân lực vì BS gây mê buộc phải biết rành rẽ từng loại phẫu thuật khác nhau (học cắt phổi, ghép tạng, mổ bắt con, gây mê trẻ con, nội soi...), nhưng thu nhập thấp, không được khám bệnh ngoài giờ, lại không được xã hội quan tâm. 

Chưa kể, khi thực hiện gây mê cho người bệnh, BS gây mê cũng hít phải những thuốc mê độc hại. Trong khi đó, ở nước ngoài, lương của BS gây mê cao hơn BS sản khoa, nhi khoa, khoảng 500.000 USD/năm. Thực tế ở Việt Nam, nhiều BS gây mê ra trường đã phải chuyển sang chuyên ngành khác.

Bên cạnh đó, BS gây mê yếu chuyên môn là do hiện nay Việt Nam chỉ đào tạo BS gây mê tổng quát. Mặt khác, thời gian đào tạo BS gây mê nội trú của Việt Nam chỉ có ba năm, còn ở nước ngoài đến 5 năm. Với những BS gây mê muốn học chuyên sâu thì hoàn toàn phụ thuộc vào kinh phí của mỗi bệnh viện.

Thep Phụ nữ TPHCM



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015

Những loại thuốc không thể thiếu khi đi du lịch

1. Các loại thuốc giảm đau, hạ nhiệt

Khi đi chơi xa, đặc biệt khi trong đoàn có trẻ em. Thuốc thường dùng và tương đối an toàn hiện nay là Paracetamol như Acemol, Efferalgan, Panadol... 

Chuẩn bị sẵn các dạng thuốc thích hợp cho từng đối tượng, ví dụ gói bột hay viên hàm lượng thấp 80-150 mg cho trẻ nhỏ nặng 5-10 kg, viên 325 mg cho trẻ lớn khoảng 25-30 kg, viên 500 mg cho trẻ trên 30 kg và người lớn... Thuốc được dùng 4-6 lần mỗi ngày cách nhau ít nhất 4 giờ.

2. Thuốc dùng khi ngộ độc thức ăn, rối loạn tiêu hóa, thuốc trị tiêu chảy hay nôn ói


Berberin, điều chế từ cây vàng đắng của y học cổ truyền, có thể tương đối an toàn ở cả nguời lớn và trẻ em. Chuẩn bị thêm một lọ than hoạt (Carbogastryl, Carbophos...) có tác dụng hút hơi, chống đầy bụng, vài gói men vi sinh (L-Bio, Lacteolfort, Biofidine...).

Các loại thuốc cầm tiêu chảy hay chống nôn ói không nên tự ý dùng, nhất là với trẻ em vì tuy làm giảm triệu chứng tiêu chảy nhanh nhưng phân cùng với các độc tố không thoát ra ngoài được, ứ đọng trong lòng ruột có thể gây nguy hiểm. Những người hay bị say tàu xe nên chuẩn bị thêm thuốc chống say như Nautamin hay Stugeron.


3. Thuốc điều trị dị ứng, mẩn đỏ, ngứa


Với trẻ em, chuẩn bị sẵn xi-rô Phenergan hoặc các loại kháng dị ứng thông thường như Polaramin, Chlopheniramin nhưng dễ gây buồn ngủ lừ đừ. Người lớn có thể dùng các dạng kháng dị ứng mới như Histalong, Cetirizine... Thường chỉ cần dùng 1 viên mỗi ngày và không gây buồn ngủ.

4. Các loại bông gòn, băng gạc, các dung dịch tẩy trùng như cồn, nước oxy già, cồn iốt


Đề phòng trường hợp té ngã, xây xát và đương nhiên, với những người có bệnh mãn tính cần dùng thuốc thường xuyên như cao huyết áp, tiểu đường, tim mạch... thì thuốc là phần không thể thiếu trong chuyến đi, thậm chí quan trọng hơn cả thức ăn và những đồ đạc khác.

Ngoài ra cần mang theo một số loại thuốc như:

- Kem chống nắng, chống nứt môi, chống dị ứng … (tùy nơi đến)
- Kem chống côn trùng/bôi sau khi bị côn trùng cắn/đốt (tùy nơi đến)
- Kem chống dị ứng da
- Vitamins
- Thuốc/biện pháp tránh thai
- Thuốc chống say xe/máy bay/tàu


Một số mẹo nhỏ khi đi di lịch


Mang theo gừng sấy khô hay củ gừng tươi

TS Robert Stern, chuyên gia nghiên cứu về nguyên nhân say tàu xe cho biết: Để khỏi bị say sóng trong suốt hành trình du lịch, hãy thử ngậm 1.000mg củ gừng khô hoặc tươi (có sẵn trong các cửa hàng thực phẩm y tế) trước khi căng buồm và, nếu cần thiết, bốn giờ sau đó thử lại một lần nữa.

Ăn uống thông minh
Ăn nhiều sữa chua trong suốt kỳ nghỉ để đảm bảo bạn có một sự cân bằng lành mạnh cho đường ruột, giúp chống lại vi khuẩn xâm nhập từ những thực phẩm hoặc môi trường lạ. Ngoài ra, sữa chua còn là một nguồn cung cấp protein tuyệt vời. Với một chút chất béo, nó sẽ giúp bạn ngăn chặn cảm giác đói lúc nửa buổi và là bữa ăn nhẹ rất tốt cho buổi chiều.

Theo Liễu Phạm - Giáo dục Việt Nam




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Lưu ý không thể bỏ qua trước khi dùng thuốc kháng sinh

Kháng thuốc kháng sinh hiện được coi như một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe con người. Những phân tích dưới đây sẽ giúp bạn hiểu tác hại của điều này và cân nhắc hơn trước mỗi lần dùng đến kháng sinh.

Một đợt kháng sinh cũng dẫn đến kháng thuốc

Nhiều người có thói quen cứ bị ho, cảm lạnh hay khịt mũi là muốn dùng đến thuốc kháng sinh để nhanh khỏi. Nhưng có lẽ họ không ý thức được rằng mỗi lần sử dụng kháng sinh đặc biệt, nguy cơ kháng thuốc, tức thuốc sẽ không hiệu quả cho lần chữa trị sau sẽ gia tăng. 

Trước thực trạng kháng thuốc kháng sinh ngày càng đáng báo động, chúng ta đang đứng trước nguy cơ trở lại thời kỳ một nhiễm trùng nhỏ cũng có thể gây chết người. Thậm chí, nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, không phải cứ dùng nhiều, mà chỉ cần một đợt kháng sinh cũng góp phần sinh ra kháng thuốc.

Ảnh minh họa

Các nhà khoa học Anh đã theo dõi một nhóm trẻ được cho uống một đợt kháng sinh để điều trị nhiễm trùng thông thường như viêm tai giữa và nhiễm trùng đường hô hấp. 

Ban đầu, 1/3 số trẻ tìm thấy vi khuẩn có gene kháng thuốc kháng sinh, nhưng 2 tuần sau đó, số trẻ này tăng lên gấp đôi. 

Còn trong một nghiên cứu khác ở Australia, trẻ uống kháng sinh trước thời điểm xét nghiệm 2 tháng mang lượng vi khuẩn đường hô hấp kháng penicillin gấp đôi so với thông thường. Điều đó có nghĩa là nếu đứa trẻ ấy lại bị viêm nhiễm khác trong vòng 2 tháng đó thì uống kháng sinh penicillin là vô ích.

Giống như tất cả các sinh vật sống, vi khuẩn có thể biến đổi gene để sống sót, thích nghi với môi trường sống có nhiều thay đổi, đó là nguyên nhân cơ bản của tình trạng kháng thuốc. Hậu quả của kháng thuốc kháng sinh như chúng ta có thể hình dung, đó là nhiễm khuẩn có xu hướng kéo dài lâu hơn, dễ gây biến chứng, khả năng lây nhiễm sang người khác tăng lên.

Australia là một trong những nước có tỷ lệ thuốc kháng sinh được kê đơn cao nhất trong các nước phát triển, khoảng 22 triệu đơn thuốc mỗi năm nhưng ước tính gần một nửa số này là không cần thiết. 

Không chỉ Australia, rất nhiều quốc gia khác cũng đã nhận ra tình trạng lạm dụng thuốc kháng sinh, mà càng lạm dụng thuốc, nguy cơ hình thành các "siêu vi khuẩn" khó điều trị càng gia tăng. Bởi vậy, sử dụng thuốc kháng sinh cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.

Nguyên tắc cơ bản tránh kháng thuốc

Kháng sinh không diệt được virus. Hầu hết các bệnh cảm lạnh, cúm là do virus nên điều trị bằng kháng sinh không có tác dụng bởi kháng sinh chỉ tiêu diệt vi khuẩn. Vì vậy, uống thuốc kháng sinh trong trường hợp nhiễm virus là vô ích và làm gia tăng nguy cơ kháng thuốc.

Cân nhắc giữa lợi ích và tác hại. Nếu uống thuốc kháng sinh để điều trị nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng thì đó là điều cần thiết. Nhưng những nhiễm trùng thông thường, như viêm tai giữa chẳng hạn mà dùng đến kháng sinh thì nên cân nhắc. 

Hướng dẫn điều trị của ngành y tế Australia chỉ ra rằng, viêm tai giữa nguyên nhân có thể do vi khuẩn hoặc virus. Bệnh thuộc dạng tự khỏi nên khoảng 60% trẻ bị bệnh thường hết đau trong vòng 24 tiếng mà không cần điều trị bằng kháng sinh. Tuy nhiên, nếu trẻ sốt, buồn nôn hoặc biểu hiện có nhiễm trùng thứ cấp thì cần phải dùng kháng sinh.

Nên tư vấn kỹ. Nếu đơn thuốc kê kháng sinh, là người bệnh bạn nên được giải đáp cặn kẽ rằng, tại sao cần phải uống thuốc kháng sinh loại đó, tác dụng phụ thế nào, kết hợp giải pháp nào để hồi phục nhanh hơn.

Thực hiện đúng hướng dẫn. Để thuốc đạt hiệu quả cao nhất và tránh kháng thuốc, quan trọng nhất là thực hiện đúng quy định như liều lượng, thời gian, cách dùng.

Theo An ninh Thủ đô




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Bị viêm họng, bà bầu nên dùng thuốc thế nào?

Nếu là viêm họng do vi- rút: thì không cần dùng kháng sinh mà chỉ cần điều trị triệu chứng: hạ sốt, giảm ho, giảm đau họng… Thuốc hạ sốt thường dùng là paracetamol. 

Tuyệt đối không được sử dụng thuốc hạ sốt, giảm đau, kháng viêm aspirin vì thuốc này dễ gây quái thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ. Đối với 3 tháng cuối của thai kỳ thuốc còn gây ra các rối loạn ở phổi, liên quan đến việc đóng ống động mạch của bào thai trong tử cung… 

Ngoài ra, thuốc còn có thể gây kéo dài thời gian mang thai và chậm chuyển dạ.

Chỉ sử dụng thuốc ho khi ho làm ảnh hưởng tới thai phụ như ho nhiều, liên tục có thể ảnh hưởng đến thai như sảy thai…

Ảnh minh họa

Trường hợp viêm họng do vi khuẩn: Ngoài dùng thuốc hạ sốt cần phải dùng kháng sinh. Khi phải dùng thuốc này thầy thuốc phải lựa chọn nhóm thuốc nào an toàn nhất, ít gây hại nhất cho thai nhi. Nhóm kháng sinh hay dùng cho đối tượng này là bê-ta lactam (gồm các thuốc penicillin, ampicilin, amoxicillin, cephalosporin…).

Các thuốc này có tác dụng tốt với các vi khuẩn hay gây bệnh viêm họng như tụ cầu, liên cầu, phế cầu… 

Hơn nữa thuốc an toàn cho phụ nữ có thai kể cả trong 3 tháng đầu. Đối với những người bệnh bị dị ứng với các thuốc trên có thể dùng nhóm kháng sinh macrolid (bao gồm các thuốc erythromycin, spirammycin, azithromycin…

Ngoài việc sử dụng kháng sinh có thể dùng một số thuốc ngậm tại chỗ như lysopain, mekothrocine, benzoncain, papain… 

Với các thuốc ngậm này có thể có thêm kháng sinh hoặc giảm đau trong thành phần. Kháng sinh có mặt trong thành phần của thuốc sát khuẩn họng dạng ngậm thường là bacitracine. Ngoài ra, trong thuốc còn có chất lysozyme có tác dụng chống viêm, giảm phù nề hoặc tinh dầu bạc hà…

Việc dùng thuốc cho đối tượng này phải hết sức thận trọng, đặc biệt là trong 3 tháng đầu của thai kỳ, để tránh thuốc làm ảnh hưởng đến thai nhi. Vì vậy, phụ nữ có thai không được tự điều trị viêm họng. Việc điều trị phải có sự theo dõi của thầy thuốc chuyên khoa tai mũi họng và sản khoa.

Theo Sức khỏe và Đời sống


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317



 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons