Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

Loét thực quản do thuốc

Nên uống thuốc ở tư thế đứng hoặc ngồi thẳng để phòng tránh loét thực quản - Ảnh: N.C.T.
Bà Huỳnh Xuân T., 43 tuổi, đến khám tại BV Đại học Y dược TPHCM một ngày cuối tháng 6. Bốn ngày trước bà T. đi khám phụ khoa và uống liều thuốc điều trị đầu tiên với khá ít nước. Ngay trong ngày hôm đó, bà bắt đầu có cảm giác đau rát âm ỉ liên tục ở vùng ngực sau xương ức và vùng bụng trên rốn; đặc biệt là khi ăn uống. 

Nội soi tiêu hóa tại bệnh viện phát hiện có một vết loét đường kính 15mm ở thực quản (đoạn ống tiêu hóa nối từ miệng đến dạ dày). Đây là bệnh cảnh loét thực quản cấp tính do thuốc khá điển hình và thường gặp tại các bệnh viện.

Những sai lầm... dễ tránh

Một yếu tố khá quan trọng khi uống thuốc nhưng lại ít được đề cập và quan tâm đúng mức là cần phải uống thuốc đúng cách. Ngoài vấn đề thường được dặn dò như cách sử dụng thuốc trong ngày (số lần, liều dùng, nên uống trước hoặc sau ăn...) thì hầu như người bệnh có rất ít thông tin về việc nên uống thuốc thế nào để tránh tác động xấu của thuốc lên thực quản.

Khi uống thuốc nhưng uống ít nước, uống thuốc ở tư thế nằm hoặc nằm ngay sau khi uống thuốc, thuốc có thể chưa xuống đến dạ dày và lưu lại ở thực quản.

Đặc biệt đối với các viên thuốc được bào chế dưới dạng viên nang (con nhộng), lớp vỏ thuốc sẽ bị mềm rất nhanh khi gặp môi trường ẩm và dễ bám dính trên thành thực quản khi uống ít nước. 

Nồng độ thuốc tại chỗ quá cao sẽ gây ra độc tính trực tiếp trên thành thực quản, hoặc một số thuốc khi tan rã sẽ tạo ra những chất có tính kiềm hoặc acid làm bỏng thành thực quản và có thể tạo ra ổ loét lớn với đường kính lên đến 30mm hoặc đồng thời nhiều ổ loét.

Nhiều người bệnh khi đến với chúng tôi kể lại rằng do không biết tác hại của vấn đề này nên có khi nuốt nguyên cả viên thuốc mà không kèm nước, hoặc buổi tối khi đã lên giường đi ngủ sực nhớ bỏ quên cữ thuốc chiều nên vội vã uống thuốc ở tư thế nằm, hoặc uống thuốc xong là lên giường nằm nghỉ ngay.

Loét thực quản do thuốc hay gặp ở người có tuổi do đặc điểm sinh lý theo tuổi thì chức năng co bóp nhu động của thực quản để đẩy thuốc xuống dạ dày thường kém hơn so với người trẻ, và do người có tuổi thường có thói quen nằm để uống thuốc hoặc uống xong là nằm nghỉ ngay. 

Bệnh cũng gặp ở nữ nhiều hơn nam giới do các thuốc dễ gây loét thực quản thường được sử dụng trong điều trị bệnh lý da liễu và phụ khoa.

Dấu hiệu tổn thương

Triệu chứng thường gặp nhất của viêm loét thực quản do thuốc thường là đau sau xương ức có thể lan ra sau lưng, tăng lên khi bệnh nhân hít sâu hoặc khi ăn uống, đôi khi kèm theo triệu chứng nuốt khó, nuốt đau... 

Tuy nhiên có trường hợp chỉ biểu hiện bằng đau vùng bụng trên rốn và nóng rát sau xương ức, tương tự bệnh trào ngược dạ dày thực quản hoặc viêm loét dạ dày tá tràng.

Trên thực tế loét thực quản do thuốc không hiếm gặp nhưng thường ít được nghĩ đến vì triệu chứng đau ngực làm người bệnh lo lắng và nghĩ đến bệnh tim phổi hơn là bệnh lý của đoạn ống tiêu hóa ít được nghe nhắc đến này. Nhưng nhiều người bệnh chỉ nghĩ đơn giản đây là tác dụng phụ tất yếu của thuốc trên dạ dày và chấp nhận nó trong khi đây hoàn toàn là một tình trạng bệnh có thể phòng tránh.

Một số trường hợp khác, người bệnh đã quen sử dụng một loại thuốc trong thời gian dài nhưng hoàn toàn không có triệu chứng, do đó sau lần uống thuốc không đúng cách và bị loét thực quản do thuốc thì bệnh nhân không nghĩ đến nguyên nhân là loét thực quản do thuốc, mà nghĩ nhiều đến khả năng bị viêm loét dạ dày tá tràng mới xuất hiện gần đây. Có nhiều loại thuốc có thể gây viêm loét thực quản.

Tuy nhiên, thường gặp nhất vẫn là nhóm thuốc kháng sinh Doxycycline (được dùng tương đối phổ biến trong điều trị mụn trứng cá và viêm nhiễm phụ khoa), các thuốc kháng viêm giảm đau, thuốc điều trị loãng xương nhóm Biphosphonate... thậm chí nhóm thuốc giảm đau hạ sốt tương đối lành tính nhất là Paracetamol cũng đã có những báo cáo trong y văn ở châu Á là có thể gây ra viêm loét thực quản.

Điều may mắn là đa số trường hợp loét thực quản do thuốc đều có thể chữa lành và ít khi gây ra biến chứng nghiêm trọng.

Các biện pháp điều trị chủ yếu là tạm ngừng uống các thuốc gây loét thực quản, điều trị hỗ trợ bằng các thuốc chống trào ngược acid dạ dày, bù nước điện giải và giảm triệu chứng đau tại chỗ bằng thuốc tê lidocain dạng gel hoặc sucrafate. 

Phần lớn tổn thương sẽ lành sau 2 - 4 tuần điều trị. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là bệnh hoàn toàn có thể phòng tránh một cách hữu hiệu khi chúng ta đã có được những nhận thức về nó và bằng những biện pháp hết sức đơn giản.

Dùng thuốc ngủ cho trẻ dễ dẫn tới nguy cơ tai biến

Việc lạm dụng thuốc ngủ cho trẻ sẽ gây lệ thuộc thuốc và làm chứng rối loạn giấc ngủ trở nên trầm trọng hơn. Đó là chưa kể việc dùng thuốc không đúng có thể gây các tai biến nguy hiểm đến tính mạng.

Theo bác sĩ Nguyễn Quang Vinh, phụ trách chuyên khoa thần kinh Bệnh viện Nhi Đồng 1 cho biết, thuốc gây ngủ có nhiều loại. Loại thứ nhất là thuốc dùng vào mục đích điều trị bệnh có tác dụng phụ gây ngủ. Thứ hai là thuốc thật sự để điều trị mất ngủ. Thứ ba là thuốc tâm thần, thần kinh dùng để điều trị bệnh nhân tâm thần (bắt buộc phải cho ngủ thì mới hết bệnh). Trẻ em chỉ có thể dùng nhóm đầu tiên để ngủ nhiều hơn, bớt hoạt động, dễ lên cân và đỡ quấy khóc.

Việc dùng thuốc 2 nhóm sau rất nguy hiểm. Chúng là các loại thuốc hướng thần, gây nghiện được ngành y tế quản lý rất chặt chẽ và khi mua bắt buộc phải có đơn.
Loại thuốc dùng vào mục đích điều trị nhưng có tác dụng phụ gây ngủ thường dùng thuộc nhóm antihistamine. Thông thường những thuốc này dùng để điều trị những bệnh liên quan đến dị ứng như nổi mề đay, ngứa, sổ mũi, ho khan theo thời tiết. Một số thuốc thường được dùng cho trẻ là Théralène, Chlorpheniram, Peritol… (thường là dạng xirô).

Ngoài ra, còn có các thuốc điều trị bệnh tâm thần, thần kinh mà gây ngủ như thuốc chống động kinh (Gardenal), thuốc chống loạn thần như Aminazin, thuốc an thần như Seduxen (thuốc này mục đích điều trị là để cho êm dịu, đỡ căng thẳng thần kinh nhưng vì giúp ngủ ngon nên bị lạm dụng làm thuốc ngủ), thuốc điều trị mất ngủ như Meprobamate…
Bác sĩ khuyên không dùng thuốc ngủ cho trẻ khi không có bệnh, chỉ dùng khi có chỉ định của bác sĩ. Việc lạm dụng sẽ gây nhờn thuốc (mất hiệu quả điều trị) hoặc lệ thuộc thuốc (không dùng thì không ngủ được). Mặt khác, việc tùy tiện dùng thuốc ngủ sẽ khiến trẻ ngủ ngày nhiều, đêm không ngủ nữa, và chứng rối loạn giấc ngủ càng nặng thêm.

Do đó, cần đặc biệt lưu ý không dùng thuốc cho trẻ khi không có bệnh. Và chỉ khi có chỉ định điều trị của bác sĩ thì mới được dùng thuốc cho trẻ, ngay cả thuốc bổ cũng vậy.
Nguyên nhân có thẻ gây mất ngủ ở trẻ

Khi ngủ bị giật mình chắc chắn là do tâm thần bất định, ban ngày nhiều người nói to, cười đùa... 

Trong khi ngủ não của tất cả mọi người đều xử lý, sắp xếp lại các thông tin nhận được ban ngày nên lúc đó nhiều thông tin không xử lý được sẽ làm não cần nhiều thời gian và năng lượng hơn, cơ thể bé không đủ sẽ dẫn đến bất an.

Ngoài ra, một số cơ quan khác phải hoạt động mạnh trong thời gian này sẽ chiếm hệ tuần hoàn của bé khiến não cũng không hoạt động đầy đủ. 

Đây là lý do giải thích tại sao không nên cho ăn no trước khi đi ngủ (kể cả người lớn). Ngoài ra, đó là chưa nói đến các lý do tạo ra bởi môi trường ngủ như âm thanh, ánh sáng, thời gian, khói thuốc lá...

Cách khắc phục tình trạng mất ngủ của trẻ

Khi nhà có em bé thì các thành viên trong môi trường chung sống phải hết sức giữ gìn, không nói to, nô đùa. 

Người trực tiếp chăm nuôi bé (có thể không phải chỉ có mẹ) luôn phải tự nghiêm khắc với mình, tuân thủ các quy tắc dinh dưỡng vì đứa bé (ăn uống đúng giờ, đủ chất, kiêng cữ cẩn thận) hạn chế tuyệt đối các tác nhân kích thích (bố không được hút thuốc lá trong phòng, mẹ không "làm vài ly" trước khi cho con bú)...

Phụ huynh nên lưu ý, không cho bé ăn quá no các thức ăn chính trước khi đi ngủ. Trước khi ngủ nên lau người cho bé thật sạch sẽ bằng nước ấm (kích thích tuần hoàn bằng nhiệt độ, sự thoải mái và các động tác tương tự massage...) nhưng tuyệt đối không tắm.

Đối với phòng ngủ của bé, tuyệt đối yên tĩnh và hạn chế ánh sáng. Nếu dùng các thiết bị điều chỉnh điều kiện không khí (quạt, máy lạnh...) thì luôn phải đảm bảo các yếu tố cần cho sức khỏe (độ ẩm, độ điện âm, mức lưu thông không khí...). 

Đặc biệt, đối với trẻ sơ sinh không nên dùng bất cứ loại thuốc nào và đặc biệt là các thuốc an thần nếu chưa có chỉ định của bác sĩ.


Theo VnMedia

Thuốc chữa đau bụng kinh

Thuốc trị đau bụng kinh gồm có các loại nào? Cách sử dụng thuốc trị đau bụng kinh ra sao? Các tác dụng phụ của thuốc khi sử dụng như thế nào? Mời bạn tham khảo bài viết dưới đây.

Thuốc chữa đau bụng kinh
Đau bụng kinh là một hiện tượng thường gặp ở phụ nữ khi đến chu kỳ hành kinh. Hiện tượng này có thể xuất hiện trước hoặc trong ngày hành kinh. Tùy theo cơ địa của từng người mà có người đau nhẹ, có người lại đau nặng, thậm chí là đau dữ dội, tụt huyết áp, mệt mỏi, buồn nôn, tiêu chảy... Để giảm những cơn đau bụng kinh nhanh một số chị em đã dùng các loại thuốc giảm đau. Vậy những loại thuốc này có ưu và nhược điểm ra sao?

Các loại thuốc chữa trị đau bụng kinh nguyệt

Cataflam

Đây là muối natri của diclofena, không chứa steroid. Thuốc được dùng để giảm đau chung kể cả đau bụng kinh nguyên phát... Đây là dạng thuốc viên nén uống.
Liều dùng: Liều hàng ngày nên điều chỉnh theo từng người và thường từ 50 - 150 mg. Nên dùng liều khởi đầu là 50 - 100 mg và nếu cần có thể tăng trong một vài trường hợp lên đến 200 mg/ngày. Nên bắt đầu dùng ngay khi có xuất hiện triệu chứng đau bụng đầu tiên và tùy thuộc vào các triệu chứng sau đó mà có thể dùng tiếp hoặc không.
Lưu ý khi sử dụng Cataflam: Dùng cho người trên 16 tuổi. Tránh dùng Cataflam với các thuốc chống viêm không steroid khác (aspirin), thuốc chống đông máu (heparin, ticlopidin). Không được dùng cho người viêm loét dạ dày tá tràng tiến triển, người bị bệnh hen, người suy gan thận nặng, người có mẫn cảm với thuốc. Dùng với liều lượng cao và dài ngày thì có thể gây một số tác dụng phụ nhứ loét đường tiêu hóa, gia tăng men gan, làm giảm chức năng thận.

Mefenamic acid

Đây là thuốc giảm đau không steroid. Một số chị em phụ nữ thường dùng khi bị đau bụng hành kinh. Tuy nhiên không được dùng thuốc này kéo dài hơn 7 ngày.
Liều dùng: 1,5g/ngày, chia làm 3 lần. Uống trong bữa ăn.
Lưu ý khi dùng thuốc Mefenamic acid: Dùng cho người trên 16 tuổi. Thuốc có thể gây tác dụng phụ như buồn ngủ, chóng mặt, rối loạn tiêu hóa, mẩn ngứa, giảm tiểu cầu. 
Thận trọng khi cơ thể mất nước, bị động kinh, không dùng cùng với thuốc chống đông (curamin), các thuốc giảm đau không steroid khác (như aspirin). Với người bị viêm loét dạ dày đang tiến triển, người bị hen, người có thai, người mẫn cảm với thành phần của thuốc tuyệt đối không được dùng.

Hyoscinum

Đây là loại thuốc chống co thắt có tác dụng gây giãn cơ. Cơ chế của thuốc là làm liệt giao cảm nên được dùng khi bị co đau co thắt trong đó có đau bụng hành kinh.
Lưu ý khi sử dụng Hyoscinum: Thuốc có tác dụng phụ là gây khô miệng, tim đập nhanh, bí tiểu tiện. Một số trường hợp bị dị ứng da nhẹ nhưng hiến gặp. Tuyệt đối không dùng cho người mắc bệnh glaucoma, rối loạn niệu đạo tiền liệt tuyến và người hẹp môn vị.

Alverine

Đây là thuốc dạng viên nén, có tác dụng là chống co thắt, có tác dụng hướng cơ. Cơ chế là làm hủy co thắt sinh ra do acetylcholine, được dùng giảm đau trong các trường hợp đau do co thắt trong đó có đau khi hành kinh.
Liều dùng: Dùng cho người lớn: 1 - 3 viên/ lần. Dùng 3 lần/ngày.
Lưu ý khi sử dụng Alverine: Không dùng thuốc này cho người huyết áp thấp.

Mofen 400mg

Mofen là loại thuốc chống viêm không có cấu trúc Steroid, vừa có tác dụng chống viêm, giảm đau và hạ sốt. Thường được dùng để giảm đau bụng kinh.
Liều dùng: Uống 1 – 2 viên ngay khi có triệu chứng đau bụng kinh. Tùy theo những mức độ đau và những triệu chứng có thể xuất hiện sau đó mà giả hoặc tăng liều dung. Nhưng tối đa là 3 -4 viên/ngày.
Lưu ý khi sử dụng mofen 400mg: Không dùng chung với thuốc chống đông máu và thuốc lợi tiểu. Người bị loét dạ dày, suy thận, gan, HA cao, có thai, lupus ban đỏ hệ thống.. cũng không được dùng. Thuốc dùng nhiều có thể gây suy giảm trí nhớ, nổi ngứa, mề đay, hen, rối loạn tiêu hóa, đau đầu, buồn nôn...

Lưu ý khí sử dụng các loại thuốc trị đau bụng kinh:

Trước khi sử dụng các loại thuốc giảm đau trên nên tham khảo ý kiến của bác sĩ hoặc dược sĩ chuyên khoa, có chuyên môn. Không nên tự ý mua và dùng thuốc, vì chúng đều có tác dụng phụ và dùng nhiều sẽ không có lợi cho sức khỏe.
Tất cả các loại thuốc giảm đau trên đều dùng cho trường hợp cần giảm đau nhanh với liều lượng thấp, riêng thuốc cataflam, mefenamic acid, mofen chỉ được dùng cho người trên 16 tuổi.

Lời khuyên từ các bác sĩ chuyên khoa:

Cơn đau khi hành kinh là cơn đau do tăng co thắt. Ba thuốc cataflam, mefenamin, mofen 400 là thuốc giảm đau chung, có nhiều tác dụng phụ, trong khi hai thuốc hyoscinum, alverin tác dụng có tính đặc hiệu làm giảm co thắt cơ, ít tác dụng phụ hơn. Thông thường nên dùng hyoscinum, alverin.
Theo Phongkhamphukhoa

Bộ Y tế ban hành Hướng dẫn sử dụng kháng sinh

Cùng với các nước trên thế giới, Việt Nam đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi của Tổ chức Y tế thế giới "Không hành động hôm nay, ngày mai không có thuốc chữa" và "Kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2020". Tài liệu "Hướng dẫn sử dụng kháng sinh" là một trong nhiều nhiệm vụ của Kế hoạch hành động trên.
Ảnh minh họa
Tài liệu gồm có 11 Chương và 55 bài, bao gồm đại cương về kháng sinh và vi khuẩn, sử dụng kháng sinh trong các bệnh nhiễm khuẩn thường gặp (nhiễm khuẩn hô hấp, tim mạch, tiêu hóa, thận - tiết niệu,…).

Tài liệu hướng dẫn sử dụng kháng sinh sẽ được áp dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Căn cứ vào tài liệu này và điều kiện cụ thể của đơn vị, Giám đốc cơ sở khám chữa bệnh sẽ xây dựng và ban hành tài liệu hướng dẫn sử dụng kháng sinh phù hợp để thực hiện tại đơn vị.

Theo GS.TS Trần Quỵ, Ban biên soạn tài liệu hướng dẫn sử dụng kháng sinh, cho biết thì kháng sinh đã đánh dấu một kỷ nguyên mới của y học về điều trị các bệnh nhiễm khuẩn, đã cứu sống hàng triệu triệu người khỏi các bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm. 
Tuy nhiên, cũng do việc sử dụng rộng rãi, kéo dài và lạm dụng, chưa hợp lý, an toàn nên tình trạng kháng kháng sinh của các vi sinh vật (vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, nấm, …) ngày một gia tăng.
"Mức độ kháng thuốc ngày càng trầm trọng làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị, tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao, thời gian điều trị kéo dài, chi phí điều trị tăng cao, ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh và cộng đồng". Vì vậy, ban hành tài liệu "Hướng dẫn sử dụng kháng sinh" là việc cần thiết", GS.TS Trần Quy cho biết.

Những loại bệnh không nên dùng thuốc bổ

Các nhà khoa học Mỹ cảnh báo, việc dùng canxi hoặc vitamin D để hạn chế nguy cơ tổn thất xương trong liệu pháp hoóc-môn cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt có thể làm cho bệnh tình thêm trầm trọng. 

Liên quan đến cảnh báo này, các chuyên gia đại học Shefield của Anh vừa khuyến báo những loại bệnh dưới đây nên tránh dùng một số loại vitamin, dưỡng chất.

1. Ung thư tuyến tiền liệt nên tránh dùng canxi

Trung bình mỗi năm tại Anh có trên 5.000 đàn ông dùng liệu pháp hoóc-môn để điều trị bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Liệu pháp này có tác dụng phong bế sản xuất hoóc-môn nam tính testosterone gây tăng tái phát ung thư, nhưng mặt trái của liệu pháp này lại ảnh hưởng đến sức khỏe của xương.

Chính điều này người ta đã nghĩ đến việc bổ sung canxi cho cơ thể, nhưng theo nghiên cứu của Trung tâm y tế Wake Forest Baptist thuộc ĐH North Carolina, Mỹ, ở 2.399 người trước và sau khi sử dụng liệu pháp nói trên cho thấy tỉ trọng khoáng của xương bị giảm nghiêm trọng. 

Nếu dùng liều cao canxi có thể làm giảm hiệu ứng hoạt hóa của vitamin D, dưỡng chất cơ thể rất cần để hấp thụ canxi ngay từ giai đoạn đầu, và hậu quả làm phong bế tác dụng của canxi có trong xương. 

Vì vậy, khi dùng liệu pháp này nên duy trì hoạt động để tăng cường sức khỏe cho xương và sau giai đoạn điều trị tỉ trọng xương sẽ được phục hồi trở lại, không nên dùng canxi ().

2. Bệnh vảy nến tránh dùng vitamin A

Một trong số những loại thuốc được sử dụng phổ biến để điều trị bệnh vảy nến là nhóm thuốc retinoids là dạng viên hoặc kem dưỡng da. Nó có tác dụng điều tiết tăng trưởng tế bào da, nhưng bệnh vảy nến lại tăng trưởng mạnh làm cho da đỏ và tạo thành những vảy mới dạng bạc.

Lý do của hiện tượng này là vì retinoids có chứa một dẫn xuất là vitamin A giúp duy trì da phát triển và nếu dùng quá nhiều vitamin A có thể gây độc. 

Do vitamin A là loại dưỡng chất hòa tan mỡ nên có có thể lưu lại trong cơ thể, tích tụ trong gan nên có hại cho cơ thể. Nếu lạm dụng quá liều trên 0,7mg/ngày đối với đàn ông hoặc 0,6mg/ngày đối với phụ nữ có thể dẫn đến tình trạng viêm kết mạc, rụng tóc và làm tăng các chứng bệnh về da, nhất là nhóm người mắc bệnh vảy nến.


3. Bệnh tim nên tránh dùng vitamin E và kali

Đây là những dưỡng chất có thể làm tăng bệnh tim, kết luận này được dựa vào một nghiên cứu quy mô quốc tế dài 7 năm ở 100.000 người mắc bệnh tim, động mạch vành và đái tháo đường do ĐH McMaster của Canada thực hiện. 

Theo nghiên cứu, nếu dùng liều cao vitamin E (400iu- khoảng 363mg) /ngày thì rủi ro mắc bệnh suy tim tăng tới 13% và 21% nguy cơ phải nhập viện vì bệnh tim.

4. Bệnh đái tháo đường nên tránh dùng vitamin B3

Vitamin B3 còn có tên gọi khác là niacin, tham dự vào quá trình chuyển hóa và giúp cơ thể sản xuất năng lượng từ thực phẩm khi ăn vào, tuy nhiên nếu dùng liều cao (trên 13mg/ngày đối với phụ nữ và 17mg/ngày đối với nam giới) có thể làm gia tăng bệnh đái tháo đường.

5. Loãng xương tránh dùng vitamin A và phốt pho


Nếu có quá nhiều phốt pho trong máu trên 1.000mg có thể làm cho lượng canxi trong xương bị giảm mạnh và gây chứng loãng, giòn xương. Tại Anh người ta khuyến cáo không nên dùng quá nhiều 250mg phốt pho/ngày. 

Theo nhiều nghiên cứu do Thụy Điển thực hiện cho thấy cứ tăng 1mg vitamin A liều dùng hàng ngày thì tăng rủi ro gãy xương háng tới 68%. 

Ngoài ra, vitamin A còn làm cạn kiệt nguồn canxi trong xương vì vậy lạm dụng vitamin A còn làm cho hàm lượng canxi trong máu tăng vọt. Người ta khuyến cáo nên dùng liều vitamin A đối với nam giới là 0,7mg/ngày và phụ nữ là 0,6mg/ngày.

6. Bệnh thận tránh dùng canxi


Nếu dùng canxi nhất là liều cao hơn so với khuyến cáo (700mg/ngày) có thể gây tích khoáng trong thận và lâu ngày gây sỏi thận, gây đau nếu không được tán nhỏ chảy qua đường nước tiểu ra ngoài, thậm chí nếu nặng thì phải phẫu thuật.

7. Bệnh đau dạ dày nên tránh dùng vitamin A

Dùng vitamin A để hạn chế tổn thương lớp lót thành dạ dày, nhưng nếu dùng liều cao, dài kỳ trên mức khuyến cáo 0,7mg/ngày (nam giới) và 0,6mg/ngày (phụ nữ), hoặc vượt trên ngưỡng 2,3mg/ngày có thể gây tình trạng có tên Hội chứng tăng huyết áp trong sọ (intracranial hypertension) căn bệnh làm gia tăng áp lực dịch não, gây thủ phạm đau đầu và rối loạn thị giác.

3 loại thuốc không thể thiếu trong tủ thuốc gia đình

Chuẩn bị nhiều loại thuốc trong tủ thuốc gia đình đôi khi gây ra lãng phí vì một số loại ít khi dùng đến, để lâu cũng hết hạn sử dụng.

Có một số trường hợp mà bạn có thể tự chủ động điều trị bệnh khi có triệu chứng. Các chuyên gia y tế khuyên bạn nên lưu trữ 3 loại thuốc sau đây ở nhà trong mọi thời điểm.

Thuốc cảm

Cảm lạnh là một trong những bệnh phổ biến. Các chuyên gia phân tích, mọi người có nguy cơ cảm lạnh 75% mỗi năm. Vì vậy, chuẩn bị một hộp thuốc cảm lạnh ở nhà chắc chắn sẽ không phải là lãng phí. Thuốc cảm lạnh tốt nhất là thuốc Tây bởi nó trực tiếp điều trị các triệu chứng cụ thể, đem lại hiệu quả nhanh chóng hơn so với những loại thuốc khác.

Tuy nhiên, thuốc cảm lạnh chỉ có thể làm giảm các triệu chứng và nếu dùng quá liều có thể có tác dụng phụ. Do đó, không nên uống quá liều, cần tuân theo chỉ dẫn của bác sỹ khi uống. Đặc biệt là trẻ em, sau khi đã sử dụng thuốc thì nên nghỉ ngơi, kết hợp uống nhiều nước.


Thuốc dạ dày, chống đầy hơi và khó tiêu

Hoạt động thể chất kém, ít vận động, cộng thêm chế độ ăn uống nhiều dầu mỡ của lối sống hiện đại làm gia tăng đáng kể gánh nặng cho dạ dày. Vì thế, chuẩn bị sẵn trong tủ thuốc một vài loại thuốc dạ dày, khó tiêu chẳng hạn như điều trị các triệu chứng: lạnh bụng, đầy bụng... là cần thiết và tiện dụng.

Thuốc giảm đau

Nhân viên văn phòng dễ bị đau lưng, mỏi vai gáy, đau đầu; phụ nữ trẻ dễ bị đau bụng kinh; người cao tuổi lại dễ phải đối mặt với chứng đau khớp. Do đó cần chuẩn bị một số thuốc giảm đau trong tủ thuốc vì bạn và gia đình có thể có nhu cầu dùng đến bất kì lúc nào.

Tuy nhiên, không nên quá lạm dụng thuốc giảm đau. Nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi lựa chọn và dùng thuốc. Ngoài ra nếu sau khi dùng thuốc giảm đau thấy các triệu chứng đau lại tăng, phát sinh các triệu chứng đau mới hay sau ba ngày dùng thuốc liên tục mà triệu chứng đau không giảm bớt thì tốt nhất bạn nên đi khám để an toàn hơn.

Thuốc trị tiểu đường làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang

Nghiên cứu mới ở Canada cho thấy thuốc Pioglitazone thường được kê đơn để điều trị bệnh tiểu đường týp 2 có thể làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang.

Để tìm hiểu mối liên quan giữa Pioglitazone và ung thư bàng quang, Jeffrey Johnson từ Trường đại học Y tế công cộng, Đại học Alberta và đồng nghiệp đã tiến hành một tổng quan hệ thống, phân tích các thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu quan sát bao gồm 2,6 triệu bệnh nhân.
Kết quả là thấy tăng nguy cơ ung thư bàng quang liên quan với việc sử dụng thiazolidinedione.
Thiazolidinedione, bao gồm Pioglitazone, được giới thiệu vào cuối những năm 1990, cũng được biết là glitazone, một nhóm thuốc dùng để điều trị bệnh tiểu đường týp 2.
Dựa vào ước tính gộp từ 3 nghiên cứu quần thể với hơn 1,7 triệu người thì sử dụng Pioglitazone liên quan với tăng nguy cơ ung thư bàng quang.
Nhóm nghiên cứu cũng xem xét mối liên quan với rosiglitazone, một loại thiazolidinedione khác, nhưng không thấy có tác dụng.
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons