Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

Hiểm họa từ sử dụng thuốc tai - mũi - họng

BS Nguyễn Bích Ngọc cho biết, thuốc dùng trong tai - mũi - họng (TMH) rất đa dạng. Tuy nhiên, cần chú ý tới các nguy cơ do thuốc có thể xảy ra trong quá trình sử dụng.

Ảnh minh họa
Do TMH là cửa ngõ đường ăn, đường thở, có hệ mạch và thần kinh rất phong phú nên khi sử dụng thuốc, ngay cả khi tại chỗ cũng có thể gây tai biến, phản ứng nguy hiểm. 
Ví dụ, cho trẻ sơ sinh nhỏ thuốc nhỏ mũi loại co mạch naphazolin 0,1% đã gây tử vong (theo thông báo của Viện Nhi). Nguyên nhân do độ lan tỏa và co mạch quá mạnh của thuốc làm co thắt các mạch máu não. 
Hay dùng corticoid qua đường xịt mũi hay khí dung kéo dài sẽ gây xuất huyết đường tiêu hóa ở những người có loét dạ dày, tá tràng, tăng tiến triển các bệnh đường hô hấp ở những người có bệnh đường hô hấp, lao phổi.
Mặt khác, vì TMH có hệ thống thần kinh giao cảm phong phú nên các phản ứng phụ của thuốc thường gặp đều có liên quan đến TMH như chóng mặt, ù tai, buồn nôn. 
Các phản ứng phụ của thuốc nhiều khi khó tránh khỏi, nếu không được giải thích, căn dặn sẽ có thể gây hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: kháng histamin (kháng H1) thường được dùng trong viêm mũi xoang nhưng lại có tác dụng phụ là gây buồn ngủ.
Nếu người bệnh không biết, hoặc không được giải thích kỹ về thời gian uống thuốc có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng nếu uống thuốc xong lại làm ngay công việc cần sự tỉnh táo như làm việc trên cao, hay lái tàu, lái xe. 
Ngoài ra, vì TMH là cơ quan giữ nhiều chức năng quan trọng nên cần đặc biệt lưu ý khi sử dụng các thuốc có ảnh hưởng xấu đến chức năng của các cơ quan này.
Trước hết với chức năng nghe: Nhiều trường hợp do dùng thuốc dẫn đến điếc, nguy hại hơn nếu xảy ra với bà mẹ mang thai dễ làm cho đứa trẻ bị câm điếc sau này. Kháng sinh gây tác dụng phụ loại này phổ biến nhất là nhóm aminozid.
Cần nhớ có những người mẫn cảm thì chỉ với một lượng nhỏ như rắc, nhỏ vào tai cũng gây nên điếc tiếp âm, không có khả năng hồi phục. Đối với chức năng ngửi: Các thuốc rỏ mũi có thủy ngân (Hg) sẽ gây mất ngửi, thường không hồi phục.
Sử dụng thuốc không đúng cách hoặc quá lạm dụng thuốc cũng có thể gây tổn hại niêm mạc, bởi niêm mạc mũi xoang với hệ thống lông - nhày hoạt động rất tinh tế. 
Khi làm thay đổi pH, nhiệt độ, độ nhớt như rỏ mật ong nguyên chất vào mũi sẽ gây tổn hại niêm mạc do độ pH và độ nhớt quá cao. 
Các thuốc dùng dài ngày cũng gây tác hại lớn như rỏ các thuốc co mạch (ephedrin, naphazolin) tuy đúng hàm lượng nhưng nhiều lần, kéo dài liên tục sẽ gây viêm mũi do thuốc. Ngoài ra, nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống miễn dịch.
Vì thế, việc sử dụng thuốc kháng sinh, hạ nhiệt trong viêm mũi họng cấp thông thường cho trẻ nhỏ làm cản trở việc tạo hệ thống miễn dịch hoặc tạo hệ thống miễn dịch không hoàn chỉnh. 
Ngược lại rỏ các loại dịch thuốc chưa được nghiên cứu kỹ (các đông dược với hoa lá tươi) có thể sẽ là cách vô hình đưa các dị nguyên vào cơ thể. Nếu rỏ liên tục thì các dị nguyên này sẽ tác động đến hệ thống miễn dịch và là nguyên nhân gây các phản ứng dị ứng sau này.
Theo L.Q - Pháp luật Việt Nam

Thuốc ngậm ho: những sai lầm khi sử dụng

Rất nhiều người "ghiền" ngậm thuốc mỗi khi bị ho, Mai Anh cũng vậy. Ngậm miệt mài một thời gian, chứng viêm họng của chị kéo theo cả viêm xoang.

Việc tự ý sử dụng các loại thuốc, trong đó có thuốc ngậm, ức chế ho, giảm ho là rất nguy hiểm. Bởi khi ức chế ho, đờm không tiết được ra ngoài, mà bị ứ lại, trở thành viêm đường hô hấp mạn tính.

Ghiền ngậm thuốc

Trên thị trường hiện có rất nhiều loại thuốc ngậm, thậm chí còn có những loại có hương vị hoa quả, cho cảm giác dễ chịu. Vì vậy, khi bị ho, nhiều người thường có thói quen mua các loại thuốc ngậm dạng viên về dùng.
Thuốc ngậm chỉ có tác dụng sát khuẩn họng. Ảnh: Kim Anh

Cứ khi thời tiết thay đổi, chuyển mùa là chị Mai Anh (Đống Đa, Hà Nội) lại ho dữ dội. Mỗi lần như vậy, chị lại mua thuốc ngậm để bớt ho. Thời gian đầu, chị giảm ho đi hẳn. Nhưng một thời gian sau, ho càng nhiều kèm theo có cả đờm. Đi khám bệnh, chị mới hay mình đã bị viêm mũi họng kéo dài dẫn đến viêm xoang.

Chưa nặng như chị Mai Anh, nhưng chị Thảo (Xã Đàn, Hà Nội) đi đâu trong túi cũng có vài vỉ thuốc ngậm. "Mình hay mua loại thuốc ngậm có vị bạc hà, dùng loại này lâu thành quen, ngậm vào mát họng lại đỡ ho. Đầu tiên cũng chỉ dùng vài viên lúc ho nhẹ rồi dần dần cơn ho vẫn không giảm mà có chiều hướng tăng thêm khiến tôi phải sử dụng nhiều hơn", chị Thảo, cho biết.

Theo TS Nguyễn Thị Ngọc Dinh, nguyên Giám đốc BV Tai Mũi Họng Trung ương, khoảng 48% - 54% dân số nước ta gặp phải triệu chứng ho mỗi lúc chuyển mùa. Tuy nhiên, ho chỉ là triệu chứng của bệnh, còn nguyên nhân thì lại rất khác nhau. 

Ví dụ, ho có thể do cảm lạnh, viêm mũi họng, dị ứng, với trẻ em thì có thể do viêm VA, chảy mũi, hay thậm chí là có dị vật trong đường thở… Vì vậy, khi dùng thuốc cần phải xem xét nguyên nhân gây bệnh chứ không thể tự tiện mua thuốc về sử dụng.

Không nên ức chế cơn ho

TS Dinh cũng cho biết thêm, ho là phản xạ của cơ thể để đẩy các chất đờm trong họng ra ngoài. Như vậy ho là phản xạ để bảo vệ cơ thể, vì thế các chuyên gia thường khuyến khích chứ không ức chế cơn ho. 

Vì vậy, khi kê đơn, các bác sĩ cũng thường sử dụng thuốc loãng đờm chứ không phải thuốc ức chế ho. Việc tự ý sử dụng các loại thuốc, trong đó có thuốc ngậm, ức chế ho, giảm ho là rất nguy hiểm. 

Bởi khi ức chế ho, đờm không tiết được ra ngoài, mà bị ứ lại, trở thành viêm đường hô hấp mạn tính. Như vậy, không những không chữa được căn nguyên gây bệnh mà còn trở thành vòng luẩn quẩn.

Còn các thuốc ngậm có vị hoa quả, bản chất chỉ là hương liệu đưa vào để thơm ngon, bắt mắt, dễ dùng, quan trọng là phải xem thành phần các chất trong thuốc như nào. Cũng có một số loại viên ngậm có hương bạc hà, hương chanh… có tác dụng sát trùng họng sau khi ăn uống. Tuy nhiên, cũng không được lạm dụng.

Với trẻ nhỏ thì tuyệt đối không nên cho dùng thuốc ngậm. Trẻ 6 - 7 tuổi trở lên mới nên cho ngậm thuốc. Bởi đặc tính của thuốc là ngậm để chữa, trẻ còn nhỏ quá không biết sẽ nuốt luôn. Nếu ngậm thuốc viên thì trẻ nhỏ còn có nguy cơ bị sặc. 

Trong trường hợp em bé bị cảm cúm, có thể dùng các thuốc long đờm dạng si rô… nhưng chỉ là hỗ trợ điều trị, còn ho nặng hơn phải có chỉ dẫn của BS, nếu ho trên một tuần phải đi khám xem có bị viêm xoang không. Với người lớn nếu ho kéo dài trên 3 tuần nên đi kiểm tra.

Các chuyên gia y tế cũng khuyến cáo, trường hợp ho có liên quan đến đau họng, nên dùng mật ong hấp chanh, quất, súc miệng nước muối và uống nhiều nước.
Chuyên mục bạn quan tâm

Cảnh báo của WHO về thuốc sốt rét giả

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ra một bản thông báo về loại thuốc nhái giả mạo của coartem (artemether-lumefantrine) đang lưu hành tại Cameroon.

Coartem là một thuốc phối hợp liều dựa trên nền tảng thuốc ACTs dùng để điều trị sốt rét, các lô thuốc giả được phát hiện gần đây trong các bệnh viện và ở ngoài chợ trời.
Cảnh báo thuốc coartem giả của WHO là một phiên bản cập nhật ấn bản vào tháng 5/2013 lưu hành tại các vùng của Trung và Tây Phi, một phần thông báo bởi cơ quan tình báo của Joint Inter-Agency Task Force (JIATF). Nhóm hành động này tiến hành điều tra, truy tìm thủ phạm, các vụ thuốc giả của Global Fund and USAID-funded medicines.
Ít nhất 4 lô thuốc được xác định (NOF 2153, F2929 và F2261) mang logo màu xanh lá cây của chương trình sốt rét Affordable Medicines Facility, tài trợ kinh phí bởi Global Fund. Số lượng các lô thuốc giả đều có thể xác định và tìm thấy mẫu tại trung tâm cảnh báo của WHO.
Các nhóm thành viên của Quỹ Toàn cầu có liên quan cũng như cơ quan Drug Regulatory Authorities quốc gia đã cảnh báo và OIG đang làm việc chặt chẽ với đối tác JIATF chính của USAID, cũng như công ty dược Novartis để xây dựng đơn vị tình báo về phòng chống thuốc giả xâm nhập vào dây chuyền thuốc của tập đoàn dược này. Cơ quan Inspector General làm việc để đảm bảo rằng đầu tư của Quỹ toàn cầu có hiệu quả nhất để chống lại các căn bệnh thời đại AIDS, lao và sốt rét.
Theo BS Hồng Ninh - Sức khỏe và Đời sống

Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2015

Nguy cơ đau tim, đột quỵ khi dùng thuốc giảm đau

Paracetamol là thuốc giảm đau thông dụng nhất ở Anh và mỗi năm có 22,5 triệu toa thuốc được kê đơn và hơn 200 triệu gói trên các quầy.
Một nghiên cứu của các nhà nghiên cứu người Anh đã cảnh báo việc dùng thuốc paracetamol hàng ngày có thể làm tăng nguy cơ đau tim, đột quỵ và tử vong sớm. Nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân sử dụng thuốc giảm đau với liều lượng cao trong thời gian dài có nguy cơ tử vong đột ngột lên tới 63%. Nguy có đau tim hay đột quỵ cao hơn 68%. Bên cạnh đó, nguy cơ mắc viêm loét hoặc chảy máu dạ dày là 50%.

Các bác sĩ cũng cho rằng paracetamol vẫn an toàn hơn thuốc trị đau đầu aspirin - loại thuốc có thể gây ra chảy máu dạ dày và loại thuốc giảm đau kháng viêm ibuprofen thường dùng trị chứng viêm khớp và thấp khớp - một trong những nguyên nhân dẫn tới đau tim, đột quỵ.
Một nghiên cứu năm 2013 của Oxford cảnh báo rằng cứ 1.000 bệnh nhân dùng thuốc ibuprofen hoặc thuốc tương tự sẽ có 3 người phải chịu một cơn đau tim trong vòng một năm, và một trong đó có nguy cơ tử vong.

Dễ bị nguy cơ đau tim, đột quỵ khi dùng thuốc giảm đau 1Paracetamol là thuốc giảm đau thông dụng nhất ở Anh. Ảnh minh họa

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu người Anh tham gia nghiên cứu trên 660.000 bệnh nhân cho biết có lẽ người rta đã đánh giá thấp rủi ro và kêu gọi hãy xem xét lại mức độ an toàn của các loại thuốc. Họ cho rằng thuốcparacetamol có thể gây bệnh bằng cách ngăn cản hoạt động của các enzyme trong cơ thể, gọi là COX-2.

Các nhà khoa học từ Viện nghiên cứu thấp khớp và cơ xương khớp Leeds đã tiến hành 8 nghiên cứu có chứa thông tin về bệnh nhân dùng paracetamol hàng ngày kéo dài đến 14 năm nhằm điều trị các bệnh như viêm khớp hay đau lưng. Họ cũng nghiên cứu trên những bệnh nhân sử dụng ít hoặc không sử dụng thuốc.

Tuy nhiên, Philip Conaghan, người đứng đầu cuộc nghiên cứu chỉ ra rằng với hầu hết các bệnh nhân, những rủi ro thường rất nhỏ và những người dùng thuốc trong khoảng thời gian dài thì có nguy cơ mắc các bệnh khiến họ qua đời sớm. Vì thế, việc xác định loại thuốc này có thực sự là nguyên nhân gây ra những vấn đề sức khỏe hay không vẫn chưa chắc chắn.

Dễ bị nguy cơ đau tim, đột quỵ khi dùng thuốc giảm đau 2Thuốc giảm đau có thể gây bệnh bằng cách ngăn cản hoạt động của các enzyme trong cơ thể dẫn tới đau tim, đột quỵ. Ảnh minh họa

Nhưng GS Philip Conaghan cũng cho biết thêm: "Tôi có chút lo lắng về liều lượng paracetamol cao trong các đơn thuốc sử dụng trong thời gian dài có thể gây ra các tác dụng phụ mà trước đó không liên quan". 

Ông cũng khuyến nghị những bệnh nhân mắc bệnh viêm khớp hoặc đau cơ bắp, đau khớp xương được kê đơn thuốc trong thời gian dài nên nói chuyện với bác sĩ về phương pháp điều trị thay thế, chẳng hạn như tập thể dục.

Theo thống kê, cứ 1/6 nam giới và 1/10 nữ giới sẽ chết vì đau tim, đột quỵ và các biến chứng khác của bệnh tim. GS Nick Bateman, chuyên gia về độc chất học lâm sàng tại ĐH Edinburgh, cho biết: "Dựa trên nghiên cứu này, nguy cơ là tối thiểu. Paracetamol vẫn là thuốc giảm đau an toàn nhất, và nghiên cứu này không ngăn cản mọi người người dùng nó".


Theo Thùy Dung - Trí thức trẻ

Cẩn trọng với thuốc giảm đau khi trẻ mọc răng

Các bậc cha mẹ không nên sử dụng Benzocain để giảm đau khi trẻ mọc răng ngoại trừ trường hợp có sự chỉ định của các bác sĩ, Viện Kiểm nghiệm Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ cho biết.



Benzocain là chất có tác dụng gây tê cục bộ, thường được sử dụng để giảm đau được tìm thấy trong các sản phẩm như Anbesol, Orajel, BabyOrajel, Orabase.

Việc sử dụng Benzocain để làm giảm đau nướu và miệng có thể dẫn đến tình trạng hiếm gặp nhưng có khả năng gây chết người được gọi là methemoglobin, khi đó lượng oxy vận chuyển trong máu sẽ giảm đáng kể. Trẻ em dưới 2 tuổi có nguy cơ đặc biệt trong tình trạng này, Viện Kiểm nghiệm Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho biết.

FDA cũng lưu ý rằng cha mẹ có thể nhận biết các triệu chứng của bệnh methemoglobin như: da, môi, móng chân, móng tay nhợt nhạt có màu xám hoặc màu xanh, khó thở, mệt mỏi, đau đầu và nhịp tim nhanh. Các triệu chứng có thể xảy ra trong vòng vài phút đến vài giờ sau khi sử dụng Benzocain.

Thay vì sử dụng Benzocain để giảm đau cho trẻ khi mọc răng, Viện Nhi khoa Mỹ, khuyên cha mẹ nên cho trẻ ngậm núm vú cao su lạnh hoặc dùng ngón tay chà nhẹ nhàng hoặc xoa bóp nướu răng của trẻ.

Theo An ninh Thủ đô

Bảo vệ thận khi dùng thuốc

Thận tiếp xúc và bài tiết thuốc ra khỏi cơ thể thì chính nó cũng bị thuốc gây những tổn thương hoặc làm suy giảm chức năng và nói tắt là "thuốc hại thận".

Trong quá trình loại bỏ thuốc ra khỏi cơ thể, hoạt động của thận sẽ ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc, nói nôm na là "thận hại thuốc". Ngược lại, thận tiếp xúc và bài tiết thuốc ra khỏi cơ thể thì chính nó cũng bị thuốc gây những tổn thương hoặc làm suy giảm chức năng và nói tắt là "thuốc hại thận".
Có rất nhiều thuốc có thể làm hại thận cấp tính hoặc mạn tính. Nguy hiểm ở chỗ là nhiều khi thuốc làm hại thận từ từ, không dễ gì phát hiện từ lúc đầu và đến khi phát hiện thì thận đã bị thuốc làm suy ở mức độ rất nặng, thậm chí phải chạy thận nhân tạo. 
Thông thường để phát hiện thận bị suy, người ta làm xét nghiệm đo creatinin máu. Nhiều thuốc chỉ mới ảnh hưởng nhẹ đến chức năng thận đã làm tăng creatinin máu, nhưng có nhiều thuốc gây hại thận dần dần mà chẳng có triệu chứng gì, đến khi làm tăng creatinin máu thì ôi thôi, đã làm thận suy rất nặng.
Các thuốc hại thận có thể kể: các kháng sinh thuộc nhóm penicillin, cephalosporin, aminoglycosid, sulfamid, quinolon…; các thuốc chống viêm không steroid NSAID; các thuốc lợi tiểu như: furosemid; thuốc ức chế men chuyển…
Người bệnh đã có tiền sử suy thận thì tuyệt đối không dùng các thuốc độc cho thận khi có thuốc khác thay thế. Ví dụ như: không dùng các aminoglycosid, amphotericin, cisplatin, mesalazin, các NSAID, penicilamin và vancomycin… là các thuốc hại thận rất dữ.
Bảo vệ thận khi dùng thuốc
Ngoài gây hại thận và chức năng thận, nhiều thuốc gây những rối loạn liên quan gián tiếp đến thận. Một số thuốc trực tiếp gây giữ nước và do đó có thể gây nặng hơn các biến chứng về tim mạch ở người bị suy thận, như: carbenoxolon, indomethacin. 
Ở người bệnh suy tim sung huyết,việc tưới máu thận phụ thuộc vào lượng prostaglandin được sản xuất tại thận, dùng thuốc NSAID sẽ ức chế tác dụng tại chỗ của prostaglandin đối với thận gây giảm dòng máu qua thận, giữ nước và làm xấu thêm tình trạng suy tim. Dùng digoxin ở người suy thận nặng sẽ làm tăng canxi huyết và/hoặc giảm kali huyết. 
Dùng các thuốc lợi tiểu giữ kali như: amilorid, spironolacton có thể gây tăng kali huyết nặng ở người suy thận. Dùng thuốc kháng tiết cholin như: atropin, scopolamin có thể gây rối loạn chức năng bàng quang và đái không tự chủ đối với người có chức năng thận bình thường. Dùng acetazolamid, vitamin D liều cao, vitamin C liều cao dễ gây đọng tạo sỏi thận - tiết niệu.
Thuốc hại thận ở đây còn có thể hiểu là thuốc có thể làm thay đổi kết quả xét nghiệm chức năng thận, như: có thuốc gây dương tính giả xét nghiệm độ đục nước tiểu (turbidimetric test): tolbutamid, kháng sinh penicillin, cephalosporin (liều cao), sulfisoxazol...; có thuốc làm tăng creatinin máu do cạnh tranh bài tiết ở niệu quản: triamteren, amilorid, trimethoprim, cimetidin, hoặc làm tăng creatinin máu trong xét nghiệm theo phương pháp Jaffe: vitamin C, kháng sinh cephalosporin.
Vì luôn luôn có nguy cơ "thuốc hại thận", nên phải xem việc dùng thuốc là rất hệ trọng. Chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết và có sự hiểu biết tối thiểu về các dùng, liều lượng, tính năng, tác dụng phụ có hại của thuốc (trong đó có tác dụng hại thận). 
Nếu có gì nghi ngờ về bệnh của mình thì cách tốt nhất đến bác sĩ khám để có cách xử trí đúng đắn, không được tự ý dùng thuốc bừa bãi, tốt nhất nên dùng thuốc theo sự chỉ định và hướng dẫn của thầy thuốc.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đức - Sức khỏe và Đời sống
Đại học Y - Dược TP.HCM

Dùng đúng kháng sinh để giảm sự kháng thuốc

Người dùng chưa thật hiểu vì sao có sự kháng thuốc. Những thói quen dùng không đúng kháng sinh làm lan rộng chủng kháng thuốc.

Khi dùng kháng sinh (KS) chữa bệnh là làm thay đổi điều kiện sống của vi khuẩn. Hầu hết vi khuẩn bị chết nhưng có một số cá thể sống sót. Những cá thể này dần dà phát triển, biến đổi gen thành chủng mới. KS trước đây dùng với chủng cũ sẽ không ức chế được chủng mới. 
Chủng mới này gọi là chủng kháng thuốc, sinh ra do dùng KS. Do khi dùng kháng sinh, điều kiện sống của vi khuẩn thay đổi lớn, đột ngột nên chủng kháng thuốc hình thành nhiều nhanh hơn (so với chủng kháng thuốc hình thành do sự thay đổi tự nhiên). Chủng kháng thuốc sau đó lan rộng ra nhiều địa phương, nhiều nước.
Theo đó, nếu dùng KS không đúng, không làm sạch được vi khuẩn, sẽ tạo cơ hội cho vi khuẩn sống sót, sinh ra chủng kháng thuốc.
Sau đây là những thói quen dùng KS không đúng:
Không dùng đúng KS đặc trị
Mỗi KS chỉ ức chế được một hoặc một số ít vi khuẩn. Có người chưa hiểu kỹ điều này, chưa biết mình bị nhiễm vi khuẩn gì cứ dùng bất cứ KS nào. 
Dùng không đúng KS đặc trị, vi khuẩn không bị ức chế. Trong cơ thể vốn có sẵn các vi khuẩn gây bệnh khác, nhưng chưa đủ điều kiện gây bệnh. Khi dùng không đúng KS đặc trị, các vi khuẩn khác trong cơ thể cũng được tập dượt, sau nhiều lần tập dượt sẽ chuyển thành chủng kháng với các KS trên. 
Khi các chủng kháng thuốc này đủ mạnh gây ra bệnh thì dùng KS trên sẽ không hiệu quả. Như vậy, mỗi khi dùng KS không đúng loại đặc trị chẳng những không chữa khỏi bệnh đang mắc mà tạo cơ hội cho nhiều vi khuẩn sinh ra các chủng kháng với KS đó.
Dùng KS không đủ liệu trình
KS không tiêu diệt, chỉ ức chế, làm suy yếu, tạo điều kiện cho cơ thể tiêu diệt vi khuẩn. Phải dùng KS sớm (khi vi khuẩn ít, còn non). Khi triệu chứng giảm nhưng chưa hết hẳn, có nghĩa là vi khuẩn có bị tiêu diệt một phần nhưng vẫn còn một phần vi khuẩn đáng kể vẫn sống. 
Khi triệu chứng mới vừa hết có nghĩa là phần lớn vi khuẩn tiêu diệt nhưng vẫn còn một ít vi khuẩn còn sống sót. 
Lúc này, phải tiếp tục dùng KS củng cố trong vài ngày để làm sạch vi khuẩn mới ngừng hẳn thuốc (đến mức kiểm nghiệm không thấy nữa, gọi là sạch vi khuẩn). Tùy bệnh, tùy thuốc mà mỗi đợt dùng KS đầy đủ ít nhất là 7 - 10 ngày. Nếu không đùng đúng vậy, mà đánh vi khuẩn nửa vời (ngừng KS quá sớm) thì vi khuẩn sẽ sống sót, chuyển dần thành chủng kháng thuốc.
Vi khuẩn Shigella kháng với các kháng sinh cũ với tỉ lệ rất caoVi khuẩn Shigella kháng với các kháng sinh cũ với tỉ lệ rất cao
Dùng kháng sinh không đủ liều, thất thường
Dùng KS ở một liều nhất định, tạo ra nồng độ đủ mạnh, ổn định mới ức chế được vi khuẩn liên tục, tạo điều kiện cho cơ thể tiêu diệt vi khuẩn. Dùng liều thấp, không ức chế được vi khuẩn. 
Dùng đủ liều hay dùng liều cao nhưng giữ không đúng khoảng cách giữa các lần dùng, nồng độ KS có lúc đủ hay quá thừa song có lúc lại không đủ ức chế vi khuẩn.Ví dụ: thầy thuốc kê đơn: penicillin, tiêm bắp, 1.000.000IUx 3 lần/ ngày có nghĩa cách mỗi 8 giờ tiêm bắp một lần 1.000.000 IU. 
Có người dồn thuốc tiêm 12 giờ ban ngày, cách nhau chỉ mỗi 4 giờ một lần, nhưng suốt 12 giờ ban đêm thì không có thuốc. Những cách dùng KS không đủ liều, thất thường này làm cho vi khuẩn sống sót, gây nên kháng thuốc.
Chỉ thích dùng KS mới, mạnh
Mỗi quần thể vi khuẩn (ví dụ: S.pneumonia) có 3 nhóm có đáp ứng khác nhau với một loại KS (ví dụ: penicillin): nhóm vi khuẩn chưa kháng thuốc bị ức chế với một nồng độ KS rất nhỏ (MIC=2mcg/ml) gọi là nhóm nhạy cảm, chiếm tỉ lệ 70,9%. 
Nhóm vi khuẩn kháng thuốc vừa, bị ức chế với một nồng độ KS trung bình (MIC=4mcg/ml) gọi là nhóm kháng trung gian, chiếm tỉ lệ 16,4%. Nhóm vi khuẩn kháng thuốc mạnh, bị ức chế với một nồng độ KS rất cao (MIC=8mcg/ml) gọi là nhóm đề kháng, chiếm là 12,7%. 
Nếu dùng KS liều rất nhỏ (MIC= 2mcg/ml) thì chỉ có 70,9% vi khuẩn ở nhóm nhạy cảm bị ức chế, tiêu diệt, còn 21,9% vi khuẩn không bị ức chế, sống sót; hiệu quả điều trị thấp. 
Nếu dùng KS liều cao, bằng hay cao hơn liều kháng trung gian (MIC 4mcg/ml) thì vi khuẩn ở nhóm nhạy cảm, nhóm kháng trung gian bị ức chế, tiểu diệt, tổng cộng lên tới 87,3% (= 70,9% + 16,4%); chỉ còn lại 12,7% ở nhóm đề kháng là không bị ức chế, còn sống sót; hiệu quả điều trị cao.
Như vậy, khi một KS bị một vi khuẩn kháng ở mức trung bình (cộng cả nhóm kháng trung gian và đề kháng ở dưới 30% hay dưới 40%) thì điều chỉnh liều thích hợp thì vẫn có thể dùng KS đó chữa nhiễm khuẩn ấy mà không phải bỏ đi.
Vì không hiểu rõ điều này, khi thầy thuốc cho dùng một KS cũ, có người không dùng, tự tìm một KS mới, mạnh hơn lúc chưa thật cần thiết. Một điều nguy hiểm nữa, khi tự dùng KS này, người bệnh vẫn có thể dùng sai, làm cho ngay nó cũng bị kháng. 
Như vậy, cách lạm dụng và dùng sai đã làm tăng thêm danh mục KS bị kháng. Một thí dụ: ở nước ta, vài chục năm trước fluoroquinolon là vũ khí "dự trữ chiến lược" (dành dùng khi KS khác bị kháng), nhưng do cách dùng như thế mà nay cũng bị kháng, trong đó có loại như: cyprofloxaxin bị kháng ở mức tương đối cao.
Dùng KS phổ rộng, kéo dài
Khi bị nhiễm nhiều chủng vi khuẩn, có thể phối hợp nhiều loại KS nhưng tiện hơn là dùng KS phổ rộng. Tuy nhiên, dù phổ rộng đến bao nhiêu thì KS phổ rộng cũng không thể ức chế hết mọi chủng, mà cũng có những chủng vi khuẩn không hay kém nhạy cảm với KS phổ rộng này. 
Nếu dùng KS phổ rộng kéo dài, nhiều loại vi khuẩn bị tiêu diệt… tạo điều kiện cho các vi khuẩn này phát triển mạnh hơn thường lệ kháng lại các KS phổ rộng, gây bội nhiễm. 
Bằng chứng rõ nhất là khi dùng nhóm KS azol (ketoconazol, fluconazol, itraconazoll) điều trị nhiễm khuẩn da kéo dài, sau đó thường bị bội nhiễm bệnh da khác.
Chủ quan có KS, không làm tốt dự phòng
Nếu cắt đường truyền sẽ giảm sự lan rộng chủng kháng thuốc. Ví dụ: từ cuối thập niên thế kỷ 20, vi khuẩn Shigella kháng với các KS cũ với tỉ lệ rất cao: cotrimoxazol 95%, nalicidic 68%, ampicilin 75% chloramphenicol 48%. 
Do vậy, WHO cho dùng cyprpfloxacin, pivmecilinam, ceftriaxon thay thế. Khi dịch Shigella xảy ra ở một địa phương, phải dùng KS đặc trị theo khuyến cáo của WHO dập tắt ngay dịch. Nếu cứ dùng KS cũ, sẽ không dập được dịch, chủng shigella kháng thuốc sẽ lây lan ra nhiều địa phương khác.
Theo DS.CKII Bùi Văn Uy - Sức khỏe và Đời sống
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons