Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

Statin làm tăng nguy cơ đái tháo đường

Khảo sát của các nhà khoa học Phần Lan nêu khả năng tăng nguy cơ bệnh đái tháo đường type 2 ở người sử dụng statin - loại thuốc rất thông dụng để giảm mức cholesterol cao trong cơ thể.




Trong công trình vừa được công bố trên tạp chí của Hội Nghiên cứu đái tháo đường châu Âu Diabetologia, các nhà khoa học đã theo dõi 9.000 đàn ông 45 - 73 tuổi, không bị đái tháo đường và 1/4 trong nhóm này sử dụng statin. 
Khoảng 6 năm sau, nhóm nghiên cứu phát hiện 625 trường hợp đái tháo đường. Sau khi đã tính toán đến những yếu tố nguy cơ gây đái tháo đường khác, các nhà khoa học nhận thấy người dùng statin dễ bị đái tháo đường hơn 46% so với người không dùng.
Statin được xem là thuốc dùng để hạ cholesterol phổ biến nhất Ảnh: BBC
Statin được xem là thuốc dùng để hạ cholesterol phổ biến nhất Ảnh: BBC
Nhóm nghiên cứu cho rằng statin có thể làm tăng kháng insulin và làm mất cân bằng khả năng tiết insulin của tuyến tụy. Phân tích cho thấy statin kéo giảm độ nhạy insulin xuống thấp hơn 24% và giảm tiết insulin 12%. 
Hai loại statin bị phát hiện làm tăng nguy cơ bệnh này là simvastatin và atorvastatin. Theo đó, simvastatin liều cao làm tăng 44% nguy cơ đái tháo đường và tỉ lệ này là 28% ở liều thấp. Atorvastatin liều cao tăng 37% nguy cơ bệnh này.
Theo Trúc Lâm - Người lao động

Prednisolon có thể gây yếu cơ

Prednisolon là một loại thuốc chống viêm corticosteroid. Prednisolon tôi được chỉ định khi cần đến tác dụng chống viêm và ức chế miễn dịch.

Prednisolon là một loại thuốc chống viêm corticosteroid. Prednisolon tôi được chỉ định khi cần đến tác dụng chống viêm và ức chế miễn dịch: Viêm khớp dạng thấp, luput ban đỏ toàn thân, một số thể viêm mạch; Viêm động mạch thái dương và viêm quanh động mạch nút, bệnh sarcoid, hen phế quản, viêm loét đại tràng, thiếu máu tan huyết, giảm bạch cầu hạt và những bệnh dị ứng nặng gồm cả phản vệ.
Tôi còn được dùng điều trị cho bệnh nhân ung thư như bệnh bạch cầu cấp, u lympho, ung thư vú và ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn cuối.
Tuyệt đối không dùng tôi cho bệnh nhân nhiễm khuẩn nặng, trừ sốc nhiễm khuẩn và lao màng não, bệnh nhân đã biết quá mẫn với prednisolon, bệnh nhân nhiễm khuẩn da do virut, nấm hoặc lao, bệnh nhân đang dùng vắc-xin virut sống.
Sử dụng thận trọng ở người bệnh loãng xương, người mới nối thông (ruột, mạch máu), rối loạn tâm thần, loét dạ dày, loét tá tràng, đái tháo đường, tăng huyết áp, suy tim và trẻ đang lớn. 
Do nguy cơ có những tác dụng không mong muốn nên phải sử dụng thận trọng corticosteroid toàn thân cho người cao tuổi, với liều thấp nhất và trong thời gian ngắn nhất có thể được. 
Suy tuyến thượng thận cấp có thể xảy ra khi ngừng thuốc đột ngột sau thời gian dài điều trị hoặc khi có stress. Bạn nên nhớ khi tiêm trong khớp cần đảm bảo vô khuẩn tuyệt đối; Khi dùng liều cao, có thể ảnh hưởng đến tác dụng của tiêm chủng vắc-xin.
Trẻ em có thể nhạy cảm hơn với sự ức chế tuyến thượng thận khi điều trị thuốc bôi tại chỗ. Nên cẩn thận khi dùng prednisolon cho phụ nữ mang thai và cho con bú.
Khi dùng tôi, bạn có thể gặp một số tác dụng phụ, thường gặp là: mất ngủ, thần kinh dễ bị kích động, tăng ngon miệng, khó tiêu, rậm lông, đái tháo đường, đau khớp, đục thủy tinh thể, glôcôm, chảy máu cam...
Nên tránh dùng cùng một số loại thuốc để tránh những tương tác có thể gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe của bạn: ciclosporin, erythromycin, phenobarbital, phenytoin, carbamazepin, ketoconazol, rifampicin. Phenytoin, phenobarbital, rifampicin và các thuốc lợi tiểu giảm kali huyết có thể làm giảm hiệu lực của prednisolon, thuốc chống viêm không steroid...
Không dùng glucocorticoid dài ngày vì tôi có thể gây ra hội chứng dạng Cushing, yếu cơ và loãng xương. Trong những trường hợp này cần cân nhắc để có quyết định đúng đắn tạm ngừng hoặc ngừng hẳn việc dùng glucocorticoid.
Theo Nguyễn Khoa - Sức khỏe và Đời sống

Nhiều vitamin tiếp tay cho bệnh ung thư

Bạn hẳn sẽ sốc khi biết rằng một số vitamin là con dao hai lưỡi, có thể làm tăng nguy cơ ung thư, hoặc làm bệnh ung thư nặng lên.

Theo Mi Trần - Kiến thức

Để dùng an toàn thuốc uống chống ngạt mũi

Pseudoephedrine là thuốc được dùng theo đường uống để chống sung huyết mũi. Cụ thể, thuốc có tác dụng kích thích trực tiếp trên thụ thể alpha ở niêm mạc đường hô hấp gây co mạch.

Pseudoephedrine là thuốc được dùng theo đường uống để chống sung huyết mũi. Cụ thể, thuốc có tác dụng kích thích trực tiếp trên thụ thể alpha ở niêm mạc đường hô hấp gây co mạch, làm giảm các triệu chứng sung huyết, phù nề niêm mạc mũi, làm thông thoáng đường thở, tăng dẫn lưu dịch mũi xoang, vì thế mà làm giảm tạm thời các triệu chứng sung huyết mũi đi kèm với viêm mũi dị ứng, viêm mũi vận mạch hoặc viêm mũi cấp do cảm lạnh.
Thuốc có thể được dùng đơn độc hoặc phối hợp với một số thuốc khác như acetaminophen (hạ sốt, giảm đau), clorpheniramin (chống dị ứng), dextromethorphan (thuốc giảm ho)... để làm giảm bớt các triệu chứng ngạt mũi, chảy nước mũi, hắt hơi do dị ứng hay không do dị ứng.
Để dùng an toàn thuốc uống chống ngạt mũiKhi bị ngạt mũi cần đi khám tại cơ sở y tế chuyên khoa để được chỉ định dùng thuốc phù hợp
Không giống các thuốc tại chỗ chống ngạt mũi, uống pseudoephedrin không gây hoặc ít gây hiện tượng ngạt mũi nặng trở lại khi ngừng thuốc. Nhưng trong quá trình dùng thuốc, một số tác dụng phụ có thể xảy ra như nhịp tim nhanh, lo lắng, bồn chồn, mất ngủ… Đây là những tác dụng phụ thường gặp nhất. Ngoài ra, thuốc có thể gây ban đỏ, ảo giác, bí tiểu, glocom góc đóng.
Để dùng thuốc được an toàn,, hiệu quả không dùng pseudoephedrin để điều trị tắc mũi do viêm xoang. Trẻ em dưới 2 tuổi không có liều cụ thể được khuyến cáo cần tham khảo ý kiến của bác sĩ nhi khoa. 
Đối với dạng giải phóng kéo dài, chỉ dùng cho người lớn và trẻ em trên 12 tuổi (vì uống loại viên này không được nhai, phải uống cả viên, nên dùng cho đối tượng từ trẻ lớn trở lên mới nuốt được). Không nên dùng quá liều chỉ định.
Đối với các trường hợp sau cần phải dùng rất thận trọng, đó là: bệnh nhân ưu năng tuyến giáp, đái tháo đường, tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, phì đại tuyến tiền liệt gây đái khó, dùng viên pseudoephedrin dạng giải phóng kéo dài đối với người bệnh có hẹp/tắc nghẽn dạ dày - ruột. 
Trừ khi được thầy thuốc hướng dẫn, tất cả những người bệnh tự ý dùng pseudoephedrin được khuyên ngừng thuốc nếu thấy xuất hiện các triệu chứng như dễ cáu gắt, căng thẳng, chóng mặt, mất ngủ, hoặc khi triệu chứng sung huyết mũi vẫn tồn tại quá 7 ngày hoặc kèm theo sốt. 
Những bệnh nhân dùng viên giải phóng kéo dài cần ngừng thuốc và tham vấn ý kiến bác sĩ nếu thấy đau bụng hoặc nôn kéo dài. Thận trọng khi dùng thuốc cho trẻ em dưới 2 tuổi và người già trên 60 tuổi vì nguy cơ độc tính cao.
Không được dùng thuốc trong các trường hợp tăng huyết áp nặng, bệnh mạch vành nặng, glôcôm góc đóng, bí tiểu, đang dùng hoặc mới dùng (trong vòng 2 tuần) thuốc ức chế MAO hoặc người mẫn cảm với thuốc.
Theo DS Hoàng Thu - Sức khỏe và Đời sống

Cảnh báo một số loại thuốc có thể làm tăng nguy cơ bệnh Alzheimer

Một nghiên cứu mới của Mỹ vừa cảnh báo nhiều loại thuốc dùng lâu dài có thể làm tăng nguy cơ bệnh bệnh Alzheimer ở người cao tuổi.

Ảnh minh họa: AFP
Theo các nhà khoa học Mỹ thuộc Đại học Washington, các loại thuốc này thuộc nhóm kháng cholin (anticholinergic) làm rối loạn sự liên lạc giữa các tế bào thần kinh, ảnh hưởng đến trí nhớ, khả năng học tập và hoạt động cơ. Một số loại thuốc ngủ, chống dị ứng và chống rối loạn đường tiết niệu thuộc nhóm thuốc này.
TS Shelley Gray và các cộng sự thuộc Đại học Washington đã theo dõi tình trạng sức khỏe của 3.434 người ở độ tuổi 65 trở lên không có dấu hiệu bệnh sa sút trí tuệ khi mới tham gia nghiên cứu.
Các nhà khoa học đã xem xét hồ sơ bệnh án và các đơn thuốc mà những người này đã sử dụng. 10 năm sau, họ ghi nhận sự xuất hiện của những dấu hiệu bệnh Alzheimer ở 797 người.
Những người này đã dùng nhiều loại thuốc kháng cholin, đặc biệt là thuốc ngủ, chống trầm cảm, chống dị ứng, và chống rối loạn đường tiết niệu.
"Những người cao tuổi nên biết rằng nhiều loại thuốc có tác dụng kháng cholin rất mạnh. Bác sĩ điều trị nên kiểm tra thường xuyên những loại thuốc họ đã dùng, kể cả thuốc không được kê đơn, để thay thế những loại thuốc khác không chứa chất kháng cholin", TS Shelly Gray dẫn đầu nghiên cứu trên khuyến cáo.
Theo Ngọc Sương - HTV

Dị ứng thuốc và sốc thuốc

Dị ứng thuốc là trường hợp cơ thể không dung nạp được với thuốc uống, chích, thoa vào cơ thể dẫn đến các biểu hiện gây hại cho sức khỏe người dùng thuốc.

Tùy theo cơ địa mà người dùng thuốc có thể bị dị ứng với bất cứ thuốc nào kể cả những thuốc được xem là "hiền" như vitamin B1. Trường hợp dị ứng thuốc nặng, người dùng thuốc bị sốc thuốc gọi là choáng phản vệ có thể dẫn đến tử vong. Vì thế việc biết đến tình trạng dị ứng thuốc và sốc thuốc là điều cần thiết cho mọi người.
V ì sao bị dị ứng thuốc?
Histamine là một chất có sẵn trong cơ thể như máu, các mô dưới dạng liên kết tĩnh điện histamine-héparine không có hoạt tính. 
Khi có chất lạ vào cơ thể người dễ bị dị ứng thì nối tĩnh điện bị cắt đứt làm histamine được phóng thích tạo nên tác dụng dược lực tác động lên hệ tuần hoàn làm giãn mạch gây tụt huyết áp, lên tim làm tim đập nhanh, lên não gây nhức đầu do bị tăng áp lực nội sọ, lên hô hấp làm co thắt khí phế quản gây nghẹt thở, lên hệ tiêu hóa làm co thắt cơ trơn… Vì thế các thuốc chống dị ứng thường được gọi chung là nhóm anti- histamine.
Ngay trong lĩnh vực dị ứng, sữa mẹ cũng được chứng minh là tốt nhất cho con. Theo một công trình nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Journal of the American Academy of Dermatology thuộc Viện Hàn lâm Da liễu Hoa Kỳ thì nhờ tác động bảo vệ từ các kháng nguyên chống dị ứng của sữa mẹ nên đứa bé có tiền căn gia đình bị dị ứng sẽ giảm thiểu được tình trạng dị ứng. Việc cho con bú sữa mẹ trong 3 tháng đầu đời giúp giảm được 32% các trường hợp dị ứng.
Các hình thức dị ứng thuốc thường gặp
Khi Histamin được phóng thích tự do trong cơ thể, hiện tượng dị ứng xảy ra được biểu hiện dưới các hình thức:
Dị ứng thuốc nhẹ:
- Mẩn ngứa, phát ban, nổi mề đay, mắt ngứa, đỏ, tụt huyết áp do mao mạch bị giãn nở.
- Khó thở do khí phế quản bị co thắt.
- Kích thích cơ trơn đường tiêu hóa gây co thắt, nôn mửa.
Dị ứng thuốc trầm trọng: Hội chứng Lyell, hội chứng Steven Johnson
- Hội chứng Lyell: Da loét, tạo nhiều mảng lớn như bị bỏng, có thể dẫn đến tử vong.
- Hội chứng Steven-Johnson: Một bệnh nhân dùng thuốc sulfamid kết hợp hai hoạt chất Sulfamethoxazol và Trimethoprim đã bị hội chứng Steven Johnson với các biểu hiện hai ngày sau khi uống thuốc, lưỡi bị viêm, nổi bọng nước, vỡ ra, đau rát rất nhiều. Đồng thời bộ phận sinh dục cũng rỉ nước, đau rát đầu dương vật.
Với những người nhạy cảm sulfamid, thuốc sẽ gây phản ứng dị ứng trầm trọng ở da và máu, gây phát ban đỏ, loét niêm mạc, nóng lạnh, đôi khi viêm cơ tim, viêm thận, viêm phế nang.
Hiện tượng quá mẫn ấy thường gặp ở:
- Miệng, môi, niêm mạc má, nướu, lưỡi: tạo bọng nước. Khi vỡ ra gây đau rát, kém ăn uống.
- Mắt: Có thể gây viêm kết mạc chảy mủ, phù mí mắt, xuất huyết dưới kết mạc.
- Niêm mạc sinh dục: Làm viêm qui đầu, viêm niệu đạo, âm hộ.
Dị ứng thuốc nặng: "sốc" thuốc còn gọi là choáng phản vệ
Xảy ra rất nhanh sau khi tiêm hoặc uống thuốc, người khó thở, trụy tim mạch. Đây là trường hợp dễ dẫn đến tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời. 
Thường gặp khi tiêm chích thuốc nhất là các thuốc kháng sinh như Penicillin, Streptomycin (vì thế trước khi tiêm các thuốc trên cho bệnh nhân, nhân viên y tế cần phải thử test) hoặc ngay cả khi thuốc được xem là "hiền" như vitamin B1 cũng có thể gây sốc thuốc cho những người mẫn cảm với thuốc này.
Thuốc chống dị ứng
Người có cơ địa dị ứng việc dùng thuốc gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra nhiều nghiên cứu đã cho thấy có mối liên hệ di truyền giữa cha mẹ và con cái. Nếu cha mẹ bị dị ứng thì xác suất sinh con có 50% bị dị ứng và có liên hệ với cùng một nguyên nhân dị ứng. 
Trường hợp cha mẹ không bị dị ứng thì tỉ lệ con mắc bệnh dị ứng chỉ là 10%. Điều ấy cho thấy có mối liên hệ giữa hiện tượng dị ứng và yếu tố di truyền với sự bùng nổ của các ca dị ứng.
Khi bị dị ứng do thuốc, cần ngưng ngay dùng thuốc đó, bên cạnh việc dùng các thuốc chống dị ứng, điều quan trọng là nhớ nhóm thuốc gây ra dị ứng để về sau không dùng nữa và sử dụng thuốc khác thay thế để loại trừ nguyên nhân gây ra dị ứng. 
Việc dùng thuốc chống dị ứng chỉ mang tính chất tạm thời để giải trừ tác động của Histamin trong cơ thể, làm mất hậu quả của dị ứng do đó không nên lạm dụng thuốc chống dị ứng.
Điều quan trọng của điều trị dị ứng, đó là tìm nguyên nhân gây ra dị ứng và tránh tiếp xúc với nguyên nhân ấy, như không dùng các loại thuốc đã từng gây ra dị ứng… 
Với các bệnh nhân có cơ địa dị ứng, nếu không chú ý đến vấn đề này thì có thể dẫn đến những hậu quả trầm trọng, đó là sốc phản vệ do thuốc (như Penicillin, Streptomycin hoặc cả vitamin B1 chích), nếu không cấp cứu kịp thời sẽ dễ dẫn đến tử vong.

Sử dụng thuốc chữa đau thần kinh tọa

Đau thần kinh tọa y học gọi là bệnh khá phổ biến trong cộng đồng. Dây thần kinh hông to là dây thần kinh lớn nhất cơ thể, xuất phát từ đám rối thần kinh thắt lưng cùng.

Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân gây đau thần kinh hông to như bệnh lý cột sống (thoái hóa cột sống, dị tật bẩm sinh cột sống, lao cột sống, ung thư cột sống...), bệnh lý khớp cùng chậu... nhưng nguyên nhân hay gặp nhất là bệnh lý đĩa đệm, đặc biệt là thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. 
Theo nhiều tác giả thì có tới trên 80% số bệnh nhân đau thần kinh hông to là do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng. Chính vì vậy cần tìm ra nguyên nhân đau thần kinh hông to để có cách điều trị phù hợp.
Đặc điểm chung của đau dây thần kinh hông to là đau âm ỉ ngang thắt lưng, lan theo đường đi của dây thần kinh hông to (mặt sau đùi xuống mặt sau cẳng chân, gót chân, bàn chân).
Điều trị
Điều trị đau dây thần kinh hông to trước hết cần điều trị nguyên nhân gây đau thần kinh hông to. Cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:
Giai đoạn cấp tính (trong vòng một tuần đầu tiên) người bệnh cần được nghỉ ngơi càng nhiều càng tốt, tránh vận động, không xoa bóp bấm huyệt, châm cứu, điện châm... để tránh co cứng cơ, có thể làm bệnh nặng thêm.
Sau giai đoạn cấp cho bệnh nhân vận động nhẹ nhàng tại chỗ tránh teo cơ, rối loạn dinh dưỡng.
Có thể kết hợp nhiều biện pháp như dùng thuốc tại chỗ với toàn thân, tây y kết hợp với đông y, lý liệu, vận động.
Điều trị đau thần kinh hông to do thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng
Trước hết cần tuân thủ các nguyên tắc ở trên, các biện pháp cụ thể như sau:
+ Dùng thuốc giảm đau kháng viêm toàn thân: lựa chọn thuốc tùy trường hợp cụ thể có thể dùng nhóm paracetamol, diclofenac,... Các thuốc này có ưu điểm là rẻ tiền, dễ mua nhưng có hại cho gan và có thể gây viêm loét đường tiêu hóa. 
Cần thận trọng dùng paracetamol cho người có tiền sử bệnh lý gan, nghiện rượu... Diclofenac không dùng cho người có tiền sử viêm loét dạ dày - tá tràng. Thuốc uống sau bữa ăn, chia làm 2 - 3 lần trong ngày.
Có thể lựa chọn các thuốc họ xicam, nhóm coxcib, các nhóm này ít tác dụng phụ trên đường tiêu hóa, thời gian bán hủy dài nên có thể dùng một lần trong ngày. Tuy nhiên các tác dụng phụ trên hệ tim mạch còn đang được nghiên cứu và kiểm chứng. 
Tuyệt đối không được dùng các thuốc kháng viêm giảm đau để thủy châm hoặc phong bế trên đường đi của dây thần kinh hông to, vì các thuốc này có thể làm tổn thương dây thần kinh ngoại vi không hồi phục, gây liệt chi thể.
+ Những trường hợp nặng có thể dùng nhóm chống viêm dạng corticoid, tuy nhiên nhóm thuốc này cần rất thận trọng vì nhiều tác dụng phụ trên hệ miễn dịch, tiêu hóa, tim mạch, nội tiết, chuyển hóa..., nên dùng ngắn ngày, liều cao hoặc dùng tại chỗ và có chỉ định chặt chẽ của thầy thuốc.
+ Thuốc giãn cơ vân (myonal, mydocalm...), có thể dùng dạng tiêm hoặc uống. Dùng sau bữa ăn, thận trọng cho người có bệnh lý dạ dày - tá tràng, trẻ em và người già (do hệ thống cơ vân yếu). Không dùng cho bệnh nhân có bệnh nhược cơ. Đối với thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng có thể dùng thuốc giãn cơ vân kéo dài tới cả tháng.
+ Vitamin nhóm B: B1, B6, B12 là các vitamin có vai trò quan trọng trong chuyển hóa của tế bào nói chung, nhất là tế bào thần kinh và bao myelin tuy nhiên cũng nên dùng theo chỉ định của thầy thuốc, không nên coi nó là thuốc bổ mà lạm dụng. Hiện nay hay dùng dạng hỗn hợp 3 loại vitamin B.
+ Các thuốc có tác dụng tăng dẫn truyền thần kinh ngoại vi như galantamine. Cơ chế tác dụng của thuốc là ức chế men cholinesterase (men phân hủy acethyl cholin ở khớp - xinap thần kinh). Chỉ định cho các trường hợp đau thần kinh hông to đã có ảnh hưởng tới chức năng của dây thần kinh. Các tác dụng phụ có thể thấy là choáng váng, đau bụng, buồn nôn. Nên dùng liều thấp rồi tăng dần.
+ Các biện pháp điều trị tại chỗ như tiêm vào khoang ngoài màng cứng, khoang cùng cần được các bác sĩ chuyên khoa tiến hành tại các cơ sở y tế có trình độ chuyên môn cao.
Những trường hợp thoát vị nặng hoặc điều trị bảo tồn không khỏi cần sử dụng các biện pháp can thiệp như chọc hút đĩa đệm qua da, mổ nội soi hoặc phẫu thuật lấy bỏ đĩa đệm thoát vị... Các trường hợp này cần được chỉ định chặt chẽ và tiến hành tại các cơ sở y tế tin cậy.
Điều trị đau thần kinh hông to do thoái hóa cột sống thắt lưng và viêm khớp cùng chậuphương châm điều trị là bảo tồn, không can thiệp. Sử dụng các biện pháp sau:
+ Dùng thuốc giảm đau kháng viêm, lựa chọn thuốc tùy trường hợp cụ thể có thể dùng nhóm paracetamol, diclofenac, xicam, nhóm coxcib.
+ Thuốc giãn cơ vân, myonal, mydocalm.
+ Vitamin nhóm B: B1, B6, B12.
+ Các thuốc có tác dụng tăng dẫn truyền thần kinh như galantamine.
+ Kết hợp với các thuốc dự phòng và chống loãng xương, thoái hoá cột sống như các thuốc nhóm biphosphonat, nhóm cancitonin, glucosamin...
Tóm lại, điều trị đau dây thần kinh hông to quan trọng nhất là điều trị nguyên nhân, sử dụng nhiều biện pháp như nội, ngoại, đông tây y. Kết hợp tại chỗ với toàn thân, coi trọng các biện pháp vật lý trị liệu và phục hồi chức năng, kết hợp giữa tự điều trị của người bệnh và có sự giúp đỡ của thầy thuốc.
Theo TS.BS Nhữ Đình Sơn - Sức khỏe và Đời sống
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons