Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015

Nguy hiểm khi tự ý dùng thuốc

Ngoài việc thuốc có thể bị lạm dụng, việc tự ý dùng thuốc còn có thể đưa đến những tác hại khó lường trước được như ngộ độc thuốc, dị ứng.

Chúng ta không nên tự ý dùng thuốc cho dù đó là thuốc bổ hay thuốc chữa các bệnh thông thường như giảm đau, hạ sốt.
Các tác hại thường gặp
Lạm dụng thuốc có thể làm lu mờ hoặc biến dạng các triệu chứng của bệnh, chẳng hạn bệnh tăng huyết áp, suy nhược thần kinh, mất ngủ thường có triệu chứng là nhức đầu. Nếu tự ý dùng thuốc giảm đau thì triệu chứng nhức đầu sẽ giảm.
Đối với những bệnh phức tạp, nguy hiểm như viêm ruột thừa, viêm phúc mạc ruột thừa thì việc tự ý dùng thuốc lại càng rất nguy hiểm vì thuốc có thể làm che lấp triệu chứng nhưng bệnh vẫn phát triển đi đến chỗ khó chữa. 
Ví dụ, chúng ta sử dụng thuốc chống co thắt để giảm đau khi bị đau bụng, khi cơn đau bụng đã khỏi, chúng ta tưởng là đã hết bệnh nhưng thực tế bệnh vẫn đang tiến triển và hậu quả nguy hiểm không sao lường được do chậm trễ trong việc mổ cấp cứu các bệnh gây đau bụng như viêm ruột thừa, viêm tụy cấp, viêm vòi trứng, có thai ngoài tử cung...
Tuyệt đối không nên tự ý dùng thuốc mà không có chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ
Không rõ về thuốc mà tự ý dùng những loại thuốc không tương xứng với bệnh, như bị cảm cúm nhưng lại dùng kháng sinh để điều trị gây hậu quả là sau khi sử dụng, chẳng những bệnh không hết mà xảy ra hiện tượng lờn thuốc.
Phản ứng dị ứng với thuốc sử dụng. Đây là tác hại rất nguy hiểm vì mỗi loại thuốc từ thuốc giảm đau, hạ nhiệt đến các loại thuốc đặc trị đều có thể xảy ra phản ứng dị ứng. 
Hơn nữa, mỗi cơ thể có sự phản ứng riêng biệt, chẳng hạn có loại thuốc dùng cho người này thì không sao nhưng ở người khác thì trở thành nguy hiểm. 
Ví dụ như kháng sinh penicillin, vitamin B1, nếu tự ý sử dụng thì rất có thể xảy ra phản ứng dị ứng của cơ thể, đặc biệt có thể xảy ra sốc phản vệ rất dễ đưa đến tử vong.
Thuốc tân dược luôn là con dao hai lưỡi, nếu biết sử dụng đúng cách thì nó có tác dụng tốt cho cơ thể, ngược lại thì đó là chất độc hại gây tai biến cho cơ thể, thậm chí có thể gây tử vong. 
Chẳng hạn, tự ý dùng bừa bãi thuốc coticoides để trị đau nhức và dùng lâu ngày sẽ xảy ra các tai biến hết sức đáng tiếc như loãng xương, phù, cao huyết áp nhưng nếu dùng đúng thì thuốc có tác dụng chống viêm rất tốt.
Những điều cần biết khi tự ý dùng thuốc
- Việc tự ý tiêm thuốc gây nguy hiểm hơn gấp nhiều lần so với tự ý uống thuốc.
- Chỉ dùng thuốc khi thật cần thiết và phải có sự hướng dẫn về cách dùng, liều lượng của bác sĩ.
- Không nên tự ý sử dụng các thuốc kháng sinh, các thuốc đặc trị.
- Không dùng thuốc kéo dài trong nhiều tháng.
- Nên nhớ rằng không bao giờ có khái niệm thuốc bổ mà chỉ có thuốc có tác dụng kích thích cơ thể.
- Khi mắc bệnh, nhất thiết phải đến gặp bác sĩ để được khám và tư vấn về việc điều trị.
- Đối với phụ nữ có thai và trẻ sơ sinh, tuyệt đối không tự ý dùng thuốc. Đối với phụ nữ đang thời kỳ cho con bú, trẻ em nói chung, người cao tuổi, nhất thiết khi sử dụng thuốc tân dược phải có sự chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ.
Theo BS Hồ Văn Cưng - Pháp luật TPHCM

Thuốc nào cứu mạng người thiếu máu cơ tim?

Đau thắt ngực do thiếu máu cục bộ cơ tim thường xảy ra sau khi bệnh nhân làm việc gắng sức, trải qua những stress nặng nề hoặc sau khi ăn quá no.

Đau thắt ngực do thiếu máu cục bộ cơ tim thường xảy ra sau khi bệnh nhân làm việc gắng sức, trải qua những stress nặng nề hoặc sau khi ăn quá no. Đau thắt ngực do bệnh này có hai dạng là đau thắt ngực ổn định và đau thắt ngực không ổn định. 
Cơn đau thắt ngực ổn định thường kéo dài từ 1 - 15 phút và giảm đi khi nghỉ ngơi hoặc đặt thuốc nitrates dưới lưỡi. Còn cơn đau thắt ngực không ổn định, mặc dù ít gặp nhưng nếu xuất hiện thì cơn đau ngực xuất hiện nhiều và dài hơn, không giảm khi nghỉ và ít đáp ứng với các nitrates.
Cơn đau thắt ngực có thể là triệu chứng của nhồi máu cơ tim.Cơn đau thắt ngực có thể là triệu chứng của nhồi máu cơ tim
Dấu hiệu cho biết đau thắt ngực do thiếu máu cơ tim
Vị trí đau thường sau xương ức, đột ngột làm bệnh nhân đang gắng sức phải ngừng lại ngay. Bệnh nhân có cảm giác tức ngực như có gì bóp, có gì đè chẹn sau xương ức hoặc phía bên quả tim. Hoặc đau lan lên hai vai, lên hai bên quai hàm dưới ra phía trong tay trái, lên cổ.
Trường hợp không điển hình, cơn đau xuất hiện bên phải, ở vùng thượng vị mà có khi nhầm là cơn đau dạ dày cấp. Cũng có khi đau ở bả vai, cổ tay và cổ.
Tính chất đau có khi như dao đâm hoặc trái lại không đau mà chỉ có cảm giác tức ngực, khó thở, nghẹn thở, có vật gì chèn ép ở cổ, bỏng rát ở trước tim, hướng lan cũng khác, có khi xuống thượng vị hoặc ra sau lưng. Người bệnh bồn chồn, hốt hoảng, lo sợ có cảm giác sắp chết đến nơi không dám cử động vì sợ cơn đau dữ dội thêm. Thời gian đau kéo dài từ vài giây đến 10, 15 phút.
Dùng thuốc gì khi có cơn đau thắt ngực?
Khi đang đau, bệnh nhân cần phải đứng im, ngừng mọi cử động, nếu đang ở nhà hoặc không phải trong bệnh viện thì cần nằm yên hoặc theo tư thế nửa nằm nửa ngồi, tránh di chuyển, thường chỉ nghỉ ngơi như vậy cũng có thể hết đau, nhưng nếu đau nặng lên thì cần phải dùng thuốc và đi bệnh viện ngay.
Thuốc thường được sử dụng ngay, có thể dùng cấp cứu tại nhà là nitroglycerin ngậm dưới lưỡi. Nitroglycerin là một thuốc chống cơn đau thắt ngực và là dẫn xuất của nitrat. Thuốc dễ hấp thụ qua đường tiêu hóa, tuy nhiên lại bị chuyển hóa qua gan lần đầu nên sinh khả dụng thấp, vì vậy thường được sử dụng dưới dạng ngậm dưới lưỡi. 
Nếu đặt dưới lưỡi, thuốc có tác dụng ngay sau 1 - 2 phút và đạt nồng độ tối đa sau 4 phút. Ngoài dạng ngậm dưới lưỡi, thuốc còn có dạng uống, dạng tiêm hoặc dạng dùng ngoài da, tuy nhiên dùng các dạng thuốc này ở liều cao dễ dẫn đến quen thuốc.
Nitroglycerin làm giãn tất cả các cơ trơn, nhưng không ảnh hưởng đến cơ vân và cơ tim, đặc biệt tác dụng rất rõ trên cả động mạch và tĩnh mạch lớn nên làm giảm lượng máu tĩnh mạch trở về, đồng thời làm giãn động mạch lớn, vì vậy làm giảm sử dụng ôxy cơ tim và giảm công năng tim, làm giãn mạch vành và làm lưu lượng vành tăng tạm thời. 
Bên cạnh đó, thuốc còn làm thay đổi phân phối máu cho tim, tăng tuần hoàn phụ cho vùng tim thiếu máu có lợi cho vùng dưới nội tâm mạc, thuốc còn chống kết tập tiểu cầu cản trở fibrinogen bám vào tiểu cầu để hình thành huyết khối, nhất là ở vùng nội tâm mạc bị tổn thương, chính vì vậy thuốc có tác dụng để điều trị cơn đau thắt ngực. 
Ngoài ra, thuốc làm giãn mạch toàn thân trực tiếp và thoảng qua nên làm giảm lưu lượng tim, giảm sức cản ngoại vi và lưu lượng tâm thu nên thuốc còn có tác dụng gây hạ huyết áp.
Với điều trị cấp cứu cắt cơn đau thắt ngực thường dùng loại 0,25mg hoặc 0,75mg ngậm dưới lưỡi; để điều trị dự phòng thường dùng loại 2,5mg hoặc 7,5mg để uống; có thể dùng dạng dán ngoài da vùng ngực trái hoặc dạng mỡ bôi.
Tuy nhiên, cần chú ý khi sử dụng thuốc có thể gây ra tình trạng giãn mạch ngoại vi làm đỏ bừng da nhất là vùng ngực, mặt, mắt, có thể gây tăng nhãn áp; thuốc có thể gây giãn mạch não làm cho bệnh nhân bị nhức đầu, có thể làm tăng áp lực nội sọ; làm hạ huyết áp tư thế đứng; gây tăng tiết dịch vị, làm tăng nhịp tim; nếu sử dụng liều cao kéo dài sẽ gây quen thuốc; do đó thuốc không được sử dụng cho bệnh nhân huyết áp thấp (huyết áp tối đa < 100mmHg), bệnh nhân bị tăng nhãn áp hoặc tăng áp lực nội sọ.
Bên cạnh việc điều trị cấp cứu, cần tìm hiểu kỹ để điều trị nguyên nhân gây nên cơn đau thắt ngực. Điều trị lâu dài bằng các loại thuốc giãn mạch khác như: lenitral, isosorbit, tildiem, vastarel... hoặc bằng phẫu thuật động mạch vành, khoét mảng xơ vữa động mạch, bắc cầu nối, nong động mạch vành.
Bên cạnh việc dùng thuốc, người đau thắt ngực không cần nghỉ ngơi tuyệt đối nhưng cần hạn chế lao động chân tay và trí óc, tránh gắng sức, nhất là gắng sức đột ngột, đi bộ nhanh, lên dốc, lên cầu thang, ngược gió, tránh lạnh, tránh gió lùa, không được tắm đêm, sống điều độ, có giờ giấc nghỉ ngơi, tránh làm việc ngay sau bữa ăn. 
Tập thể dục nhẹ, đi bộ ngắn và chậm nhưng không chơi thể thao nặng như tập tạ, tennis, chú trọng giải trí, nghe nhạc... Không hút thuốc lá vì thuốc lá là nguyên nhân xuất hiện cơn đau, hạn chế cà phê đặc và nước chè đặc vì nó gây mất ngủ.
Không nên ăn những bữa quá thịnh soạn, không uống rượu. Ăn hạn chế chất có nhiều lipid và cholesterol như mỡ động vật, bơ, lòng đỏ trứng, óc, gan, thận và nên dùng dầu thực vật thay mỡ động vật.
Theo ThS Nguyễn Thu Hiền - Sức khỏe và đời sống

​Xét lại lợi ích bổ sung sắt cho thai phụ

Việc bổ sung chất sắt cho thai phụ được khuyến cáo từ năm 2006 và hiện chưa có cập nhật mới.


Viên sắt bổ sung chất sắt cho cơ thể. Ảnh minh họa.
Tuy nhiên, tổng kết từ nhiều nghiên cứu gần đây, các nhà khoa học nhận định việc bổ sung này không cho thấy được lợi ích rõ rệt trên sức khỏe của mẹ và bé.
Kết luận được đưa ra từ Ủy ban Phòng ngừa bệnh tật Mỹ sau khi xem xét 11 nghiên cứu trên phụ nữ có thai và 10 nghiên cứu trên trẻ nhỏ từ 6 tháng đến 2 tuổi. Họ nhận thấy việc bổ sung chất sắt ở thai phụ không thay đổi chất lượng cuộc sống, tỉ lệ sinh mổ, cân nặng của trẻ, tỉ lệ sinh non và tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh.
Đồng thời việc tầm soát tình trạng thiếu sắt một cách thường quy cũng không cần thiết. Tuy nhiên, bổ sung sắt có thể cải thiện chỉ số huyết học của mẹ.
Trong khi chờ những hướng dẫn mới, các nhà khoa học cho rằng đối với thai phụ khỏe mạnh và không có dấu hiệu thiếu chất sắt thì việc bổ sung sắt nhiều hơn 27 mg/ngày không thật sự cần thiết.
Theo BS Huỳnh Khiêm Huy - Tuổi trẻ

3 thói quen dùng thuốc của phụ huynh có thể hại chết con trẻ

Khi trẻ có các triệu chứng sốt, ho, sổ mũi bố mẹ liền vội vàng cho con uống thuốc ngay mà không biết rằng sự vội vàng này có thể gây hại cho trẻ.

Lạm dụng thuốc ho
BS Nguyễn Trí Đoàn, Giám đốc Y khoa Phòng khám quốc tế Victoria Healthcare Mỹ Mỹ cho biết, hiện nay nhiều người trong chúng ta đang có xu hướng dùng thuốc bừa bãi mà không lường được tác hại của việc đó, nhất là đối với trẻ em.
Một số sai lầm trong cách cho trẻ uống thuốc có thể nguy hiểm cho trẻ.
Cách đây 10 năm, thế giới đã khuyến cáo không sử dụng thuốc ho cho trẻ dưới 2 tuổi vì có thể bị suy hô hấp, dễ bị viêm phổi, lừ đừ và tăng nguy cơ tử vong.
Sau đó, Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) khuyến cáo là không dùng thuốc ho cho trẻ dưới 6 tuổi.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc mua thuốc ho quá dễ dàng, các phòng khám còn kê toa cho trẻ em cũng rất phổ biến.
Hễ trẻ bị ho, bố mẹ liền vội chạy ra hiệu thuốc tự cắt thuốc ho cho con, thậm chí bác sĩ còn khuyến khích mua sẵn thuốc để ở trong nhà để khi trẻ bị ho thì cho uống ngay.
Theo phân tích của BS Đoàn, ho không phải là bệnh mà là cơ chế giúp tống vi trùng, virus, chất nhầy ra khỏi phế quản, giúp bảo vệ họng và phổi.
Ho có thể là triệu chứng của cảm lạnh thông thường hoặc là biểu hiện của nhiễm khuẩn đường hô hấp như viêm mũi họng, viêm thanh quản, viêm phế quản, viêm tiêu phế quản hoặc viêm phổi.
Ở nước ta, đặc điểm của thời tiết và khí hậu là điều kiện thuận lợi cho trẻ dưới 6 tuổi dễ bị ho và cảm sốt. Trong số này có một số là do nhiễm khuẩn (dùng kháng sinh theo phác đồ), phần còn lại khá lớn là do nhiễm virut sẽ tự khỏi.
Tuy nhiên nhiều người vẫn cho trẻ dùng các thuốc ho, thuốc cảm OTC và tưởng là do hiệu quả của thuốc.
Nhưng những nghiên cứu của Mỹ cho biết, thuốc ho, thuốc cảm OTC không đưa lại lợi ích gì về lâm sàng, trong khi đó lại đưa đến một tỷ lệ cao về tai biến, trong đó có một tỷ lệ cao các trường hợp nặng gây tử vong.
Do đó, khi trẻ ho do cảm lạnh kèm sổ mũi, không sốt hoặc sốt nhẹ nhưng bé vẫn ăn uống, chơi đùa bình thường, không nôn ói thì cha mẹ chỉ cần chăm sóc trẻ bằng cách cho trẻ uống nhiều nước, ăn trái cây tươi, ăn cháo hoặc súp và theo dõi nhiệt độ cơ thể của con.
Cha mẹ không nên tùy tiện cho con uống thuốc ho nếu không muốn gây hại cho trẻ.
Tùy tiện dùng thuốc hạ sốt
Tương tự như khi trẻ bị ho, phần lớn cha mẹ cũng đều "tá hỏa" mỗi khi trẻ bị nóng, sốt hơn so với nhiệt độ bình thường. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của BS Đoàn, cha mẹ hoàn toàn cần bình tĩnh và không cần quá lo lắng về điều này.
"Chúng ta nên hiểu rằng sốt không phải là bệnh mà chỉ là một phản ứng bình thường của cơ thể khi bị nhiễm khuẩn. Sốt giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng bằng cách khởi động hệ miễn dịch của cơ thể.
Do đó, các bố mẹ không cần phải quá lo lắng khi con mình bị sốt", BS Đoàn nhấn mạnh.
Vẫn theo BS Đoàn, ở trẻ em, hầu hết các cơn sốt từ 37,8 đến 40 độ C đều không nguy hiểm, phần lớn là từ các bệnh do virut như cảm lạnh hoặc cảm cúm.
Một vài nguyên nhân khác có thể là do bệnh từ vi khuẩn như viêm họng do liên cầu nhóm A hoặc nhiễm trùng đường tiểu.
Hầu hết các cơn sốt do virut sẽ kéo dài khoảng 2-3 ngày. Tổn thương não xuất hiện chỉ khi nhiệt độ cơ thể cao hơn 420C, nhưng bộ ổn định nhiệt của não bộ sẽ giữ những cơn sốt dưới mức nhiệt độ này cho dù không uống thuốc hạ sốt.
Vì vậy, khi trẻ sốt, cha mẹ chỉ cần khuyến khích con uống nhiều nước và nghỉ ngơi chứ không nên dùng thuốc hạ sốt liên tục.
Trẻ chỉ thật sự cần dùng đến thuốc hạ sốt khi chúng quấy, trằn trọc khó chịu, không ngủ được. Nếu đang ngủ yên giấc thì ba mẹ tuyệt đối không nên đánh thức trẻ dậy để cho uống thuốc.
Dùng nhiều kháng sinh
BS Đoàn khuyến cáo, việc tùy tiện dùng kháng sinh không đúng bệnh, không đúng liều, không đủ thời gian, tùy tiện…, đang đẩy chúng ta đứng trước nguy cơ bị hạn chế về các phương thuốc điều trị. Điều này lại càng trở nên nguy hiểm với trẻ con.
Theo BS Đoàn, thuốc kháng sinh chỉ có tác dụng đối với các bệnh do vi trùng, không có tác dụng đối với các bệnh do siêu vi.
Vì vậy, hầu hết các trường hợp sốt do siêu vi, viêm họng, nhiễm khuẩn hô hấp trên, viêm thanh quản, viêm phế quản, viêm tiểu phế quản, tiêu chảy…
thì không nên dùng kháng sinh. Thuốc kháng sinh ngoài tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh thì còn tiêu diệt cả những vi khuẩn có lợi. Vì vậy, nếu sử dụng kháng sinh quá nhiều thì cơ thể sẽ dễ bị các bệnh nhiễm khuẩn hơn.
Kháng sinh sử dụng bừa bãi thường gây tác dụng phụ như: tiêu chảy, ói, dị ứng, sốc phản vệ thậm chí tử vong.
Nguy hiểm hơn, lạm dụng kháng sinh dễ dẫn đến đề kháng kháng sinh, về sau khi cần sử dụng kháng sinh để tiêu diệt vi trùng gây bệnh thì nó không còn tác dụng nữa, người bệnh sẽ dễ bị nguy cơ bệnh nặng hơn và có thể gây tử vong.
"Cách hạn chế tác hại của kháng sinh là ngưng sử dụng ngay bây giờ nếu như không cần thiết.
Ngưng sử dụng kháng sinh càng sớm thì cơ thể trẻ sẽ càng có nhiều thời gian được "huấn luyện" về miễn dịch.
Từ đó, sức đề kháng của trẻ sẽ dần khỏe mạnh trở lại, trẻ sẽ ít bị những bệnh nhiễm khuẩn hơn hoặc nếu có mắc bệnh thì cũng dễ dàng "lướt" qua bệnh" - BS Đoàn khuyến cáo.
Theo Tùng Chi - Đời sống và Pháp luật

Tiết lộ đáng sợ của bác sĩ sản khoa về thuốc tránh thai

Những ngày qua, thông tin được đăng tải trên các phương tiện truyền thông về việc uống thuốc tránh thai có thể làm teo não khiến không ít phụ nữ hoang mang, lo lắng.

Trên một số diễn đàn, nhiều người đã chia sẻ những câu hỏi hồ nghi “thần dược chữa cháy” có gây ra tác dụng khủng khiếp như vậy hay không? Thậm chí, nhiều bạn gái đã tìm đến các phòng khám để được tư vấn trước thông tin “sốc” này. PV báo ĐS&PL đã vào cuộc tìm hiểu để có câu trả lời.
Tiết lộ đáng sợ của bác sĩ sản khoa
Theo tìm hiểu của PV báo ĐS&PL, trên một số trang web có đăng tải nghiên cứu mới nhất của các chuyên gia thần kinh học của đại học California (Los Angeles, Mỹ) đã đưa ra thông tin “sốc”, bên cạnh việc gây ra một số phản ứng phụ không mong muốn ở người dùng như thay đổi tâm trạng, tăng cân và nôn mửa, thuốc tránh thai còn có thể làm teo não người sử dụng?! 
Nhóm nghiên cứu đưa ra phát hiện, hai vùng não then chốt, chịu trách nhiệm về cảm xúc và quá trình ra quyết định mỏng hơn ở những phụ nữ uống thuốc tránh thai. 
Các chuyên gia đã rút ra kết luận trên khi tiến hành nghiên cứu với 90 phụ nữ, trong đó 44 người dùng kết hợp các biện pháp tránh thai và 46 người còn lại không sử dụng bất kỳ dạng tránh thai hoóc môn nào.
Tiết lộ đáng sợ của bác sỹ sản khoa về thuốc tránh thai - Ảnh 1Nhiều bạn gái lo lắng trước thông tin uống thuốc tránh thai gây teo não. Ảnh minh họa.

Nhóm nghiên cứu cho biết, vùng vỏ não trán ổ mắt và vùng vỏ não đai sau có thể teo rút khi phản ứng với các hoóc môn tổng hợp tồn tại trong thuốc tránh thai. Các chất nhân tạo trong thuốc tránh thai đã ức chế những hoóc môn tự nhiên, kích hoạt các thay đổi về hình dạng và chức năng não.
Sau khi thông tin gây sốc trên xuất hiện, trên nhiều diễn đàn, các bạn trẻ đã đưa ra hàng loạt câu hỏi về tác dụng phụ của thuốc tránh thai. Thậm chí, nhiều bạn trẻ đã đến các trung tâm sản khoa để được tư vấn. 
Trao đổi với PV báo ĐS&PL, BS sản phụ khoa Lê Thị Kim Dung- trung tâm Y khoa Thái Hà, Hà Nội thẳng thắn chia sẻ: “Quan hệ tình dục trước hôn nhân hiện nay dần trở nên phổ biến trong giới trẻ. Tình yêu chỉ vừa mới bắt đầu, chỉ khoảng vài tháng, thậm chí vài tuần, nhiều bạn trẻ tuổi mười tám, đôi mươi đã đưa tình yêu từ con tim lên thẳng... giường ngủ. 
Và rồi, chính từ sự dễ dãi như vậy, các bạn trẻ thiếu hụt kiến thức giới tính nghiêm trọng, lại không thể bộc lộ với người khác để hiểu thế nào là tình dục an toàn mới dẫn tới những hậu quả đau lòng.
Đó là lý do nhiều bạn gái mới 17, 18 tuổi đã cay đắng bỏ học giữa chừng để làm mẹ và vô số những sinh linh bé bỏng bị “bỏ rơi” chỉ vì cha mẹ chúng còn quá trẻ. Cũng có rất nhiều bạn trẻ vì thiếu kiến thức đã sử dụng thuốc tránh thai vô tội vạ dẫn đến hậu quả khôn lường”.
BS Dung kể lại, có một bạn gái tên D.A. (Hà Nội) đã đến trung tâm xin tư vấn. Cô gái này cho biết, vì người yêu đi làm ở xa nên hai người thỉnh thoảng mới được gặp nhau. Theo như lời D.A. tâm sự thì hai người đã yêu nhau được hai năm nay và dự định khi nào D.A. ra trường, có công ăn việc làm thì cả hai sẽ cưới. 
Chính vì thế mà cả hai đã “đi quá giới hạn” với nhau cả năm nay. Mỗi lần về gặp nhau, cứ sau một lần “quan hệ”, D.A. lại uống một viên thuốc tránh thai khẩn cấp. Một đêm hai người “gần gũi” ba lần là ba lần  D.A. uống thuốc.
D.A. nghĩ rằng như vậy mới đảm bảo việc ngừa thai. Sau vài tháng như vậy, người D.A. cứ gầy rộc đi, người lúc nào cũng mệt mỏi, kinh nguyệt thì thất thường, luôn chóng mặt, buồn nôn. Thậm chí, cô từng bị ngất đột ngột vì sử dụng thuốc tránh thai quá nhiều.
“Tôi đã nhận được rất nhiều câu hỏi từ các bạn trẻ về việc sử dụng thuốc tránh thai gây những tác dụng phụ như thế nào. Đặc biệt, gần đây cũng có một số trường hợp thắc mắc về việc uống bất kỳ loại thuốc tránh thai nào cũng có thể gây teo não tức thời”, bác sỹ Dung nói.
Theo BS Dung, với tác dụng ngừa thai sau khi đã “quan hệ”, thuốc tránh thai khẩn cấp đang được giới trẻ coi như một loại "thần dược chữa cháy”. Tuy nhiên, ít người biết rằng việc lạm dụng loại thuốc này sẽ hạn chế sự phát triển và rụng trứng, nếu dùng quá liều có thể dẫn tới vô sinh. Ngay cả việc uống thuốc tránh thai hàng ngày cũng có thể dẫn đến hệ luỵ khôn lường nếu không theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ.
Có thể gây tai biến mạch máu não
Trước thông tin các bạn trẻ lo ngại về việc uống thuốc tránh thai sẽ gây teo não, trao đổi với PV báo ĐS&PL, TS.BS Lê Thị Thu Hà, Phó Trưởng khoa Sản A - BV Từ Dũ (TPHCM) nhận định: “Nhiều năm làm trong nghề, tôi cũng đã từng tư vấn cho rất nhiều bạn trẻ về việc sử dụng thuốc tránh thai làm sao có hiệu quả. Theo tôi, việc bạn gái lạm dụng thuốc tránh thai có thể gây tai biến mạch máu não, chứ không có chuyện sử dụng thuốc tránh thai sẽ gây teo não ngay lập tức. 
Chính tai biến đó khiến vỡ mạch máu, làm tổn thương não và có nguy cơ gây teo não về sau. Lạm dụng thuốc tránh thai ảnh hưởng đến mạch máu, trong đó có mạch máu não, làm tổn thương nguồn máu “nuôi” não. Teo não chỉ là hậu quả của việc lạm dụng thuốc”.
Tiết lộ đáng sợ của bác sỹ sản khoa về thuốc tránh thai - Ảnh 2TS.BS Lê Thị Thu Hà, Phó Trưởng khoa Sản A - BV Từ Dũ - TPHCM.

Cũng theo BS Lê Thị Thu Hà, uống thuốc tránh thai khẩn cấp - loại biệt dược chứa liều lượng hoóc môn sinh dục sẽ gây ảnh hưởng đến nội tiết. Vì thế, ngay cả khi sử dụng thuốc tránh thai hoặc bất kỳ thuốc nội tiết nào đi nữa, người sử dụng không biết họ thuộc cơ địa nào, có chống chỉ định hay không nên việc tự ý sử dụng sẽ vô cùng nguy hiểm. 
Ví dụ, thuốc tránh thai chống chỉ định với bệnh viêm gan, người bị hội chứng đau nửa đầu... Nhiều chị em không biết, không để ý, cứ nghĩ đơn giản là ai cũng có thể uống thuốc tránh thai nên rất dễ dẫn đến tai biến. 
Tai biến là hậu quả của việc dùng thuốc không đúng, trên cơ địa không được sử dụng. Bản thân thuốc tránh thai không có tội lỗi gì hết. Tôi nghĩ việc đưa thông tin đơn thuần rằng thuốc tránh thai gây teo não chắc chẳng ai dám dùng hết. Việc này có thể dẫn đến nguy cơ có thai ngoài ý muốn khiến việc phá thai gia tăng, điều đó còn nguy hiểm hơn. 
Thuốc tránh thai là một biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa việc có thai ngoài ý muốn, tốt với các đối tượng sử dụng được. Song, trước khi sử dụng bất kỳ loại thuốc gì, ngay cả thuốc bổ, mọi người cũng không được sử dụng tràn lan”, bác sỹ Hà khuyến cáo.

Các loại thuốc gây hại cho thận

Người bệnh đã có tiền sử suy thận thì tuyệt đối không dùng các thuốc độc cho thận khi có thuốc khác thay thế.

Thận tiếp xúc và bài tiết thuốc ra khỏi cơ thể chính nó cũng bị thuốc gây những tổn thương hoặc làm suy giảm chức năng và nói tắt là "thuốc hại thận".
Trong quá trình loại bỏ thuốc ra khỏi cơ thể, hoạt động của thận sẽ ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc, nói nôm na là "thận hại thuốc". Ngược lại, thận tiếp xúc và bài tiết thuốc ra khỏi cơ thể thì chính nó cũng bị thuốc gây những tổn thương hoặc làm suy giảm chức năng và nói tắt là "thuốc hại thận".
Có rất nhiều thuốc có thể làm hại thận cấp tính hoặc mạn tính. Nguy hiểm ở chỗ là nhiều khi thuốc làm hại thận từ từ, không dễ gì phát hiện từ lúc đầu và đến khi phát hiện thận đã bị thuốc làm suy ở mức độ rất nặng, thậm chí phải chạy thận nhân tạo. Thông thường để phát hiện thận bị suy, người ta làm xét nghiệm đo creatinin máu.
cac-loai-thuoc-gay-hai-cho-than
Nhiều thuốc chỉ mới ảnh hưởng nhẹ đến chức năng thận đã làm tăng creatinin máu, nhưng có nhiều thuốc gây hại thận dần dần mà chẳng có triệu chứng gì, đến khi làm tăng creatinin máu thì ôi thôi, đã làm thận suy rất nặng.
Các thuốc hại thận có thể kể: các kháng sinh thuộc nhóm penicillin, cephalosporin, aminoglycosid, sulfamid, quinolon…; các thuốc chống viêm không steroid NSAID; các thuốc lợi tiểu như: furosemid; thuốc ức chế men chuyển…
Người bệnh đã có tiền sử suy thận thì tuyệt đối không dùng các thuốc độc cho thận khi có thuốc khác thay thế. Ví dụ như: không dùng các aminoglycosid, amphotericin, cisplatin, mesalazin, các NSAID, penicilamin và vancomycin… là các thuốc hại thận rất dữ.
Ngoài gây hại thận và chức năng thận, nhiều thuốc gây những rối loạn liên quan gián tiếp đến thận. Một số thuốc trực tiếp gây giữ nước và do đó có thể gây nặng hơn các biến chứng về tim mạch ở người bị suy thận, như: carbenoxolon, indomethacin.
Ở người bệnh suy tim sung huyết, việc tưới máu thận phụ thuộc vào lượng prostaglandin được sản xuất tại thận, dùng thuốc NSAID sẽ ức chế tác dụng tại chỗ của prostaglandin đối với thận gây giảm dòng máu qua thận, giữ nước và làm xấu thêm tình trạng suy tim. Dùng digoxin ở người suy thận nặng sẽ làm tăng canxi huyết và/hoặc giảm kali huyết.
Dùng các thuốc lợi tiểu giữ kali như: amilorid, spironolacton có thể gây tăng kali huyết nặng ở người suy thận. 
Dùng thuốc kháng tiết cholin như: atropin, scopolamin có thể gây rối loạn chức năng bàng quang và đái không tự chủ đối với người có chức năng thận bình thường. Dùng acetazolamid, vitamin D liều cao, vitamin C liều cao dễ gây đọng tạo sỏi thận - tiết niệu.
Thuốc hại thận ở đây còn có thể hiểu là thuốc có thể làm thay đổi kết quả xét nghiệm chức năng thận, như: có thuốc gây dương tính giả xét nghiệm độ đục nước tiểu (turbidimetric test): tolbutamid, kháng sinh penicillin, cephalosporin (liều cao), sulfisoxazol…; có thuốc làm tăng creatinin máu do cạnh tranh bài tiết ở niệu quản: triamteren, amilorid, trimethoprim, cimetidin, hoặc làm tăng creatinin máu trong xét nghiệm theo phương pháp Jaffe: vitamin C, kháng sinh cephalosporin.
Vì luôn luôn có nguy cơ "thuốc hại thận", nên phải xem việc dùng thuốc là rất hệ trọng. Chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết và có sự hiểu biết tối thiểu về các dùng, liều lượng, tính năng, tác dụng phụ có hại của thuốc (trong đó có tác dụng hại thận).
Nếu có gì nghi ngờ về bệnh của mình thì cách tốt nhất đến bác sĩ khám để có cách xử trí đúng đắn, không được tự ý dùng thuốc bừa bãi, tốt nhất nên dùng thuốc theo sự chỉ định và hướng dẫn của thầy thuốc.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đức - VOV
BV Việt Đức

Chọn thuốc điều trị viêm da dầu hiệu quả

Viêm da dầu là bệnh hay gặp vào mùa hè, mùa đông. Bệnh viêm da dầu mặc dù là bệnh da lành tính nhưng gây phiền phức cho người bệnh vì màu da thương tổn đỏ.


Viêm da dầu là bệnh hay gặp vào mùa hè, mùa đông. Bệnh viêm da dầu mặc dù là bệnh da lành tính nhưng gây phiền phức cho người bệnh vì màu da thương tổn đỏ, vảy da bong liên tục ảnh hưởng đến thẩm mỹ và chất lượng cuộc sống, nhưng nếu điều trị đúng và duy trì điều trị có thể khỏi bệnh hoặc làm giảm các triệu chứng phiền phức của bệnh gây nên.
Viêm da dầu là gì?
Viêm da dầu là một dạng viêm da mạn tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi tình trạng bong vảy ở mặt và da đầu. Bệnh diễn biến dai dẳng, điều trị khó khăn, hay tái phát làm người bệnh đôi khi thất vọng, chán nản.
Một số nghiên cứu cho biết, tỷ lệ mắc bệnh trong dân chúng khoảng 2-5%. Những người bị bệnh thường hay có cơ địa tiết bã nhờn, một số người sau đó phát triển bệnh vẩy nến. 
Những bệnh nhân Parkinson, liệt mặt, người nhiễm HIV, sử dụng một số thuốc thần kinh, suy dinh dưỡng, thiếu kẽm, sang chấn tâm lý... có nguy cơ cao bị viêm da dầu.
Chọn thuốc điều trị viêm da dầu hiệu quảHình ảnh viêm da dầu trên đầu
Viêm da dầu thường xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi hoặc ở người lớn trên 30 tuổi, bệnh thường gặp hơn ở nam giới, có tính gia đình và nặng lên vào mùa lạnh. Bệnh xuất hiện ở các vùng da có nhiều tuyến bã hoạt động mạnh là mặt, đầu, ngực, lưng và các nếp gấp lớn. 
Viêm da dầu thường xuất hiện từ từ, gây ra vảy gàu khô và dính ở da đầu, đôi khi gây ngứa và không làm rụng tóc. Trong những trường hợp nặng, vảy da có thể xuất hiện ở sau tai, trong ống tai, cung lông mày, sống mũi, quanh mũi, ngực hoặc vai. 
Trẻ mới sinh có thể mắc bệnh lan tỏa, triệu chứng toàn thân rất nặng, có tiêu chảy, da toàn thân đỏ và có thể đe dọa tính mạng trẻ, gọi là đỏ da toàn thân Leiner.
Một điểm cần lưu ý là bệnh viêm da dầu dễ phát hiện, nhưng một số trường hợp có thể nhầm với bệnh vảy nến hoặc là khởi đầu của vảy nến. Bệnh cũng có thể nhầm với nấm nông da, nấm Candida kẽ, lupus ban đỏ bán cấp và một số bệnh da khác. 
Một điều đáng quan tâm là người bệnh thấy da bị đỏ, bong vảy da nhiều và chữa lâu khỏi nên cứ cho rằng mắc nấm nông ngoài da, họ cứ đi chữa chạy khắp mọi nơi, hậu quả là bôi quá nhiều loại thuốc và bệnh trở nên khó chữa.
Điều trị viêm da dầu
Cho đến nay đã có nhiều phương pháp điều trị bệnh viêm da dầu như bôi mỡ coticoid, thuốc kháng nấm tại chỗ, uống và bôi vitamin A acid, zinci - pyrithyon, hắc ín,... nhằm kiểm soát các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh. 
Các thuốc có corticoid được sử dụng nhiều và có hiệu quả trong điều trị, hiện nay có nhiều kem bôi corticoid phối hợp với thuốc chống nấm như clotrimazol và kháng sinh dùng rất tốt cho bệnh viêm da dầu.
Với viêm da dầu trên đầu: dùng các loại dầu gội chống nấm như selenium sulfide, zinc pyrithione, ketoconazol shampoo 2% gội 2-3 lần/tuần, có thể dùng duy trì lâu dài. Trường hợp nặng có thể bôi dung dịch lotion hoặc gel corticoid nhẹ trong 1-2 tuần. 
Trường hợp có vảy dày cần được điều trị bằng các loại kem có chứa corticosteroid hoặc salicylic acid. Việc điều trị thường phải kéo dài nhiều tuần, nếu sau khi ngừng điều trị mà bệnh tái phát thì việc điều trị có thể bắt đầu lại từ đầu.
Mặt và thân mình: dùng thuốc bôi corticoid dạng kem hay lotion bôi trong 1-2 tuần, sao đó bôi kem pimecrolimus 1%. Các kem dưỡng ẩm cần bôi nhiều lần trong ngày và bôi duy trì, đặc biệt vào mùa thu đông. 
Glucocorticoid bôi tại chỗ thường được sử dụng 2 lần mỗi ngày trong giai đoạn cấp. Sau khi bệnh đã được kiểm soát, có thể bôi cách ngày hoặc hai lần mỗi tuần tại nơi tổn thương để ngăn ngừa bệnh tái phát. Tác dụng phụ của glucocorticoid bôi tại chỗ tùy thuộc vào cường độ tác dụng và thời gian sử dụng thuốc, thường gặp nhất là rạn da, nổi trứng cá, giãn mạch, teo da... 
Lưu ý khi dùng kem chứa corticoid cho tổn thương ở da mặt hoặc cho trẻ em, nên ưu tiên sử dụng những loại có tác dụng nhẹ như hydrocortison, dexamethason. Những loại glucocorticoid có tác dụng mạnh chỉ nên dùng trong thời gian ngắn và tại những vùng dày sừng, không được dùng ở mặt và những vùng da mỏng. Ngoài ra, có thể dùng thuốc glucocorticoid đường uống hoặc tiêm. 
Với loại thuốc này, dù cải thiện tốt các triệu chứng lâm sàng nhưng ít khi được sử dụng do bệnh thường tái phát mạnh hơn sau khi ngưng thuốc. Trường hợp bệnh nặng, không đáp ứng với các điều trị tại chỗ, có thể dùng một đợt glucocorticoid đường uống ngắn ngày nhưng phải lưu ý giảm dần liều trước khi ngừng thuốc.
Thuốc điều trị toàn thân: có thể dùng itraconazol uống trong 2 tuần. Cần xem xét về thể trạng của người bệnh, dinh dưỡng và bổ sung các vitamin nhóm B (vitamin B3, B6), vitamin H, uống kẽm.
Điều trị duy trì: rất cần thiết để tránh tái phát và hạn chế bệnh nặng lên. Bôi kem dưỡng ẩm, kem bôi ketoconazol 2% và shampoo dùng duy trì. Có thể bôi mỡ bong vảy da salicylic 2%. Khi bệnh nặng lên có thể bôi kem hydrocortison 1-2,5% trong 1 tuần. Mỡ bôi pimecrolimus 1% hoặc tacrolimus 0,03% vừa có hiệu quả vừa an toàn và dùng lâu dài.
Chiếu tia cực tím tại chỗ: được sử dụng trong những trường hợp nặng và không đáp ứng với các điều trị bằng thuốc. Tác dụng phụ hay gặp là nổi ban đỏ, rát và ngứa da, rối loạn sắc tố.
Tuy nhiên, người bệnh cũng nên đi khám bác sĩ để có chẩn đoán chính xác và được chỉ định điều trị cụ thể, không tự ý chữa hoặc dùng các loại thuốc, nhất là các thuốc dân gian không rõ nguồn gốc, bệnh sẽ nặng lên, điều trị sẽ càng khó khăn.
Theo DS Thanh Hoài - Sức khỏe và đời sống
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons