Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015

Thuốc gì trị chứng mẫn cảm?

Các triệu chứng mẫn cảm có thể xuất hiện ngay trong vài giây nhưng cũng có thể muộn hơn sau vài ngày hoặc vài tuần sau khi cơ thể tiếp xúc với dị nguyên.

Các bệnh do cơ thể quá mẫn cảm
Hoạt động của hệ thống miễn dịch trong cơ thể con người diễn ra rất phức tạp nên cũng có nhiều nguy cơ xảy ra các sai sót và hiện tượng mẫn cảm (dị ứng) là một trong những sai sót đó. 
Hiện tượng dị ứng là một dạng phản ứng có hại của hệ thống miễn dịch đối với các tác nhân từ môi trường sống mà bình thường vốn ít nguy hại.
Thuốc gì trị chứng mẫn cảm?Một số thực phẩm dễ gây dị ứng
Các loại phản ứng viêm dị ứng và dẫn tới các bệnh lý liên quan đến dị ứng thường gặp là hen phế quản, viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng, mày đay, sốc phản vệ... Biểu hiện và mức độ của các triệu chứng dị ứng ở mỗi cá thể tùy thuộc vào loại bệnh bị mắc, mức độ mẫn cảm của cơ thể cũng như số lượng và cách tiếp xúc của dị nguyên gây bệnh.
Điều trị bệnh như thế nào?
Để điều trị các bệnh dị ứng nói chung thì cơ bản là phải tránh tiếp xúc với các dị nguyên gây bệnh, sử dụng các thuốc chống dị ứng nhằm giảm triệu chứng và thuốc làm giảm mẫn cảm đặc hiệu.
Thuốc chống dị ứng
Do phản ứng viêm dị ứng với sự giải phóng của các hoạt chất trung gian là cơ chế gây bệnh chủ yếu của hầu hết các bệnh dị ứng, nên các thuốc chống dị ứng hiện nay đều được phát triển theo hướng tác dụng ức chế phản ứng viêm dị ứng hoặc kháng lại các hoạt chất trung gian, giúp giảm các triệu chứng dị ứng cấp tính. 
Trong những năm gần đây đã có nhiều nhóm thuốc chống dị ứng mới ra đời theo xu hướng này. Trong đó có các thuốc kháng histamin thế hệ mới, kháng leukotriene, kháng thromboxane, kháng các cytokine của tế bào T, ổn định màng tế bào mast và nhiều tác nhân kháng lại các tế bào và phân tử khác.
Thuốc kháng histamin: vai trò quan trọng của histamin và thụ thể histamin H1 trong các bệnh dị ứng đã được hiểu biết ngày càng đầy đủ. Các loại thuốc thế hệ mới cũng đã ra đời ngày càng nhiều với mục đích tăng cường hiệu quả và giảm thiểu khả năng tương tác thuốc cũng như các tác dụng có hại của thuốc. 
Các thuốc kháng H1 và thế hệ 2 như loratadine, cetirizine, fexofenadine, levocetirizin, deslorratadine... hiện được ưa sử dụng hơn so với các thuốc thế hệ cũ do thuốc thế hệ mới ít gây buồn ngủ và tác dụng nhanh, ít nguy cơ gây tương tác thuốc và ít tác dụng phụ hơn so với chế phẩm gốc.
Các thuốc kháng leukotriene: Leukotriene là một nhóm các hoạt chất trung gian có vai trò không nhỏ trong các phản ứng viêm dị ứng và có thể trực tiếp gây ra nhiều triệu chứng dị ứng như co thắt cơ trơn phế quản, tăng tiết dịch nhày, giãn mạch... 
Hiện nay khá nhiều thuốc kháng leukotriene ra đời như montelukast, zafirlukast, zileuton hiệu quả và tính an toàn của các thuốc này đã được chứng minh trong điều trị các bệnh dị ứng như mày đay mạn tính, viêm mũi dị ứng, hen phế quản.
Thuốc giảm mẫn cảm đặc hiệu
Thuốc kháng IgE: kháng thể IgE có vai trò hết sức quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của hen phế quản và nhiều bệnh lý dị ứng khác. Sự kết hợp của kháng thể này với kháng nguyên gây bệnh sẽ khởi động chuỗi phản ứng viêm dị ứng. 
Các thuốc kháng IgE tổng hợp như omalizumab có khả năng liên kết và bất hoạt các kháng thể IgE tự do, gây giảm nồng độ kháng thể IgE tự do trong máu tới 90%. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, omalizumab có hiệu quả tốt trong điều trị các trường hợp hen phế quản nặng, không đáp ứng với các thuốc điều trị khác.
Các thuốc kháng thromboxane A2: do có một số bằng chứng về vai trò của thromboxane A2 trong đợt cấp và quá trình phát triển của các bệnh dị ứng nên các nhà khoa học đã có ý tưởng sử dụng các chất kháng lại hoạt chất này trong điều trị các bệnh dị ứng. Hiện nay, các thuốc kháng thromboxane A2 như ozagrel, ramatroban và seratridust đã được chứng minh hiệu quả rõ rệt trong điều trị các triệu chứng viêm mũi dị ứng.
Thuốc kháng cytokine của tế bào lympho Th2: các tế bào lympho Th2 đặc hiệu kháng nguyên được cho là có vai trò khởi phát các phản ứng dị ứng. Điều này đã đưa đến khả năng kiểm soát các bệnh dị ứng bằng cách sử dụng các thuốc ức chế các cytokine của tế bào Th2, suplatast là một trong những dẫn xuất đầu tiên của nhóm này. 
Thuốc đã được chứng minh là có khả năng ức chế sản xuất các kháng thể dị ứng IgE, ngăn ngừa sự xuất hiện các đợt dị ứng cấp tính ở chuột. Hiện nay, nghiên cứu sử dụng các thuốc này trên lâm sàng vẫn đang tiếp tục được tiến hành và có thể là một hướng đi nhiều hứa hẹn.
Theo ThS Nguyễn Vân Anh - Sức khỏe và đời sống

Tamoxifen: Tôi có thể gây độc cho mắt

Tamoxifen tôi là loại thuốc chống ung thư. Người ta thường dùng tôi trong điều trị ung thư vú phụ thuộc estrogen ở phụ nữ đã có di căn.

Tamoxifen tôi là loại thuốc chống ung thư. Người ta thường dùng tôi trong điều trị ung thư vú phụ thuộc estrogen ở phụ nữ đã có di căn. Ngoài ra, tôi cũng được dùng để điều trị hỗ trợ ung thư vú phụ thuộc estrogen ở phụ nữ và được bổ sung thêm hóa trị liệu ở một số trường hợp chọn lọc. 
Thuốc đã được dùng để điều trị hỗ trợ cho phụ nữ có nguy cơ cao tái phát sau khi đã được điều trị ung thư vú tiên phát. Tamoxifen còn được dùng để kích thích phóng noãn ở phụ nữ vô sinh do không phóng noãn.
Tuyệt đối không dùng tôi cho bệnh nhân quá mẫn với tamoxifen, bệnh nhân loạn chuyển hóa porphyrin. Thận trọng khi dùng tôi cho bệnh nhân giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu; tăng lipoprotein huyết đã có từ trước; 
Bệnh gan; Bệnh nhi, vì tính an toàn và hiệu quả của tamoxifen chưa được xác định ở loại người bệnh này. Khi dùng cho phụ nữ tiền mãn kinh cần theo dõi thận trọng vì thuốc gây phóng noãn. Không được sử dụng tamoxifen tôi cho phụ nữ mang thai và cho con bú.
Tác dụng phụ thường gặp: kinh nguyệt không đều, chảy máu âm đạo, phù hoặc tiết dịch âm đạo, ngứa âm hộ, mẩn đỏ và khô da. Đôi khi bạn gặp đau tăng và tái phát đau ở khối u hay xương có thể là dấu hiệu của đáp ứng thuốc.
Các tác dụng phụ khi sử dụng tamoxifen như đau lưng, mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt. Các tác dụng phụ khi sử dụng tamoxifen như đau lưng, mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt
Khi điều trị bằng tamoxifen cho người bệnh, cần định kỳ: đếm công thức máu, thử chức năng gan, theo dõi triglycerid và cholesterol huyết thanh ở người bệnh có tăng lipoprotein huyết từ trước.
Phụ nữ khi dùng tamoxifen, cần báo cáo cho thầy thuốc biết bất kỳ biểu hiện nào như: kinh nguyệt không đều, chảy máu âm đạo không bình thường hoặc đau/tức khung chậu.
Cần thẩm tra ngay nguyên nhân của những tác dụng này. Nếu người bệnh phàn nàn về thị lực không bình thường trong khi điều trị bằng tamoxifen thì cần kiểm tra kỹ về độc tính có thể có đối với mắt.
Các bạn nên nhớ không dùng đồng thời tôi với chất chống đông loại coumarin vì gây tăng tác dụng chống đông đáng kể.
Chớ nên dùng tôi quá liều nhé, vì tôi có thể gây độc tính thần kinh cấp với các biểu hiện như run, tăng phản xạ, loạng choạng, mệt, chóng mặt. Tốt nhất là tuân thủ hướng dẫn dùng thuốc, khi có triệu chứng khác lạ, ngừng dùng thuốc và báo ngay cho thầy thuốc, tránh những hậu quả xấu có thể xảy ra.
Theo Nguyên Lê - Sức khỏe và đời sống

Bổ sung vitamin có thể làm tăng nguy cơ ung thư

Chúng ta thường nghe các quảng cáo trên truyền hình nói rằng, nên bổ sung để bù đắp sự thiếu hụt vitamin và khoáng chất, nhưng nghiên cứu hiện nay cho rằng, việc làm này hại nhiều hơn lợi.

Một nghiên cứu quy mô lớn tiến hành ở Mỹ đã chỉ ra rằng bổ sung quá nhiều vitamin có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư và bệnh tim.Nghiên cứu được trình bày tại Hiệp hội Nghiên cứu ung thư (AACR) Hội nghị thường niên năm 2015.
Bổ sung vitamin có thể làm tăng nguy cơ ung thư.Bổ sung vitamin có thể làm tăng nguy cơ ung thư
"Chúng tôi không chắc chắn lý do tại sao điều này xảy ra ở cấp độ phân tử,nhưng bằng chứng cho thấy những người dùng quá liều các loại vitamin có nguy cơ bị ung thư cao hơn", Tiến sĩ Tim Byers, thuộc trung tâm Ung thư của trường Đại học Colorado cho biết:
Cách đây hai mươi năm, có nghiên cứu cho biết những người ăn nhiều rau xanh và hoa quả thường có ít khả năng bị ung thư hơn.
Các nhà nghiên cứu sau đó chuyển trọng tâm nghiên cứu xem liệu rằng uống quá nhiều vitamin và khoáng chất có làm giảm nguy cơ nhiễm bệnh hay không.
Các nhà nghiên cứu bước đầu thử nghiệm trên động vật và tìm thấy kết quả đáng khích lệ. Nhưng khi họ nghiên cứu hàng ngàn bệnh nhânđang dùng thực phẩm chức nănghơn 10 năm, kết quả khá đáng báo động.
"Chúng tôi thấy rằng, những viên thuốc bổ sung đó thực sự không giúp ích gì cho sức khỏe của họ. Thực tế, một số người còn bị ung thư nhiều hơn trong khi đang uống vitamin", Byers nói.
Một thử nghiệm trong việc khám phá những ảnh hưởng của việc bổ sung beta-keratin (chất sừng) cho thấy uống quá liều sẽ làm tăng 20% nguy cơ bị cả ung thư phổi và bệnh tim.
Ở một thử nghiệm khác cho thấy axit folic, vốn được coi là có tác dụng làm giảm những khối u bướu nhỏ trong ruột già, thực tế lại cho kết quả ngược lại.
"Nếu uống đúng liều, vitamin tổng hợp rất tốt cho bạn. Nhưng nên nhớ không có một sự thay thế nào tốt hơn là những thực phẩm dinh dưỡng", ông kết luận.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng, bằng cách ăn uống đủ dưỡng chất hàng ngày là cách để có được vitamin và khoáng chất tốt nhất, mà không cần phải uống bổ sung.
Theo Phương Vũ - Gia đình Việt Nam

Dùng histamin H1 trị dị ứng, lưu ý gì?

Thuốc kháng histamin H1 là loại thuốc được sử dụng phổ biến trong điều trị dị ứng hiện nay. Vì sao histamin H1 lại có tác dụng đối với dị ứng.

Thuốc kháng histamin H1 là loại thuốc được sử dụng phổ biến trong điều trị dị ứng hiện nay. Vì sao histamin H1 lại có tác dụng đối với dị ứng và sử dụng thuốc như thế nào cho đúng vẫn là một câu hỏi với nhiều người.
Tác dụng của histamin H1 trong điều trị dị ứng
Histamin là một trong những chất trung gian giữ vai trò quan trọng trong sốc phản vệ và phản ứng dị ứng. Có 2 loại thuốc kháng histamin tương ứng với 2 loại thụ thể, đó là thuốc kháng histamin H1 và thuốc kháng histamin H2. 
Thuốc kháng histamin H1 được dùng điều trị các bệnh dị ứng: viêm mũi dị ứng; nổi mày đay, ban da, viêm da dị ứng; viêm kết mạc dị ứng; các trường hợp bị côn trùng cắn... Ngoài ra, thuốc còn được dùng điều trị say tàu xe, máy bay; điều trị buồn nôn và nôn trong thai nghén; dùng như thuốc an thần gây ngủ.
Dùng histamin H1 trị dị ứng, lưu ý gì?Trước khi dùng thuốc, BN nên tránh các dị nguyên gây ra dị ứng
Các kháng histamin H1 và lưu ý khi dùng
Clorpheniramin là một kháng histamin có rất ít tác dụng an thần. Thuốc được dùng điều trị những triệu chứng dị ứng khác như: mày đay, viêm mũi vận mạch do histamin, viêm kết mạc dị ứng, viêm da tiếp xúc, phù mạch, phù Quincke, dị ứng thức ăn, phản ứng huyết thanh; côn trùng đốt; ngứa ở người bệnh bị sởi hoặc thủy đậu.
Hiện nay, clorpheniramin thường được phối hợp trong một số chế phẩm bán trên thị trường để điều trị triệu chứng ho và cảm lạnh. Tuy nhiên, thuốc không có tác dụng trong điều trị triệu chứng nhiễm virut.
Ngoài ra, clorpheniramin có thể làm tăng nguy cơ bí tiểu do tác dụng phụ chống tiết acetylcholin của thuốc, đặc biệt ở người phì đại tuyến tiền liệt, tắc đường niệu, tắc môn vị tá tràng và làm trầm trọng thêm ở bệnh nhân nhược cơ.
Khi dùng thuốc clopheniramin mà uống rượu hoặc dùng đồng thời với thuốc an thần khác thì tác dụng an thần tăng lên. Do vậy, khi đang uống thuốc này thì không nên uống rượu và không dùng thêm loại thuốc an thần khác. Thuốc cũng có thể gây ngủ gà, chóng mặt, hoa mắt, nhìn mờ và suy giảm tâm thần vận động ở một số bệnh nhân, do vậy, cần tránh dùng cho người đang lái xe hoặc điều khiển máy móc. 
Thuốc cũng có một số biến chứng ở đường hô hấp như suy hô hấp và ngừng thở, do vậy, hết sức thận trọng khi sử dụng cho bệnh nhân mắc bệnh tắc nghẽn phổi hoặc trẻ nhỏ. Những bệnh nhân cần dùng thuốc clorpheniramin kéo dài cũng có thể bị sâu răng do tác dụng chống tiết acetylcholin gây khô miệng.
Promethazin cũng là thuốc kháng histamin H1, được dùng làm thuốc an thần, phòng và kiểm soát nôn, chống say tàu xe, chống dị ứng...
Thuốc cũng có một số phản ứng có hại như gây buồn ngủ, ngầy ngật, hạ huyết áp tư thế, khô miệng, táo bón… Ngoài ra, thuốc còn tương tác với một số thuốc như an thần, thuốc chống trầm cảm, thuốc hạ huyết áp… Do vậy, khi cần thiết sử dụng thuốc này, bệnh nhân cần thông báo với bác sĩ các thuốc hiện đang sử dụng để tránh tác hại của tương tác thuốc.
Acrivastine làm giảm triệu chứng viêm mũi dị ứng, nổi mày đay… Tuy nhiên, thuốc được đào thải qua thận, do đó, không nên dùng cho bệnh nhân suy thận nặng. Với bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương, cần hết sức thận trọng khi dùng.
Levocetirizine cũng là thuốc kháng histamin H1, được chỉ định trong các trường hợp viêm mũi dị ứng theo mùa và không theo mùa, chàm mạn tính. 
Thuốc chống chỉ định với bệnh nhân dị ứng với thành phần của thuốc, bệnh nhân suy thận nặng. Bệnh nhân có thai và cho con bú thì không nên dùng. Tương tự như các thuốc kháng histamin khác, thuốc cũng tương tác với các thuốc ức chế thần kinh trung ương và rượu.
Loratadine được chỉ định trong những triệu chứng liên quan đến viêm mũi dị ứng như hắt hơi, chảy nước mũi, ngứa mũi, ngứa mắt, mày đay mạn tính và các rối loạn dị ngoài da khác.
Cũng như các thuốc khác, thuốc này không được dùng cho bệnh nhân dị ứng với bất kỳ thành phần nào của thuốc. Với bệnh nhân suy gan nặng, phải thận trọng khi dùng và phải bắt đầu từ liều rất nhỏ. 
Thuốc cũng có tương tác với rượu và một số thuốc như ketoconazole, erythromycine, cimetidine… Do vậy, bệnh nhân cần nhớ các loại thuốc đang sử dụng để thông báo với bác sĩ nhằm tránh tương tác thuốc.
Như vậy, tất cả các thuốc kháng histamin H1 đều có nhiều tác dụng phụ nên phải dùng đúng liều lượng và thời gian, theo chỉ định của bác sĩ, không nên lạm dụng thuốc, đặc biệt chú ý ở các đối tượng phụ nữ mang thai và trẻ em. 
Trong thời kỳ mang thai, khoảng 1/3 phụ nữ có tình trạng viêm mũi dị ứng, hen phế quản, mày đay hay chàm nặng lên, do vậy, vẫn cần phải sử dụng thuốc chống dị ứng. Tuy nhiên, phụ nữ trong thời kỳ này chỉ nên sử dụng những thuốc có đầy đủ bằng chứng về độ an toàn.
Theo DS Ngô Trang - Sức khỏe và đời sống

Bệnh quai bị và thuốc trị

Bệnh quai bị thường xuất hiện vào mùa đông - xuân và có thể gây thành dịch. Bệnh gặp nhiều ở lứa tuổi học đường và có thể gây những biến chứng nguy hiểm.

Bệnh quai bị thường xuất hiện vào mùa đông - xuân và có thể gây thành dịch. Bệnh gặp nhiều ở lứa tuổi học đường và có thể gây những biến chứng nguy hiểm. Hiện nay đã có vắc-xin phòng bệnh, vì vậy các bậc cha mẹ nên chủ động đưa trẻ đi tiêm phòng.
Bệnh quai bị và thuốc trịChủ động phòng ngừa bệnh quai bị bằng tiêm vắc-xin
Dấu hiệu của bệnh quai bị
Bệnh quai bị là bệnh truyền nhiễm cấp tính, gây dịch do virut quai bị gây ra. Đây là bệnh lành tính, tự khỏi và tạo ra miễn dịch bền vững. Bệnh lây truyền theo đường hô hấp qua các bụi nước của hơi thở từ bệnh nhân quai bị có viêm tuyến nước bọt. 
Bệnh gây thành dịch, hay gặp ở trẻ từ 3 - 14 tuổi và thanh niên 18 - 20 tuổi, ít gặp ở người già và trẻ dưới 2 tuổi, tỉ lệ mắc bệnh nam nhiều hơn nữ. 
Sau một thời kỳ ủ bệnh khoảng 14 - 24 ngày mà không có biểu hiện gì đặc biệt là giai đoạn toàn phát của bệnh với các triệu chứng: sốt, nhức đầu, đau mỏi toàn thân, tuyến nước bọt mang tai đau, sưng to gây biến dạng khuôn mặt, da vùng tuyến mang tai bình thường, không nóng đỏ, bệnh nhân thường bị cả hai bên mang tai, người bệnh khó nói, khó nuốt. 
Sau 1 tuần, tuyến mang tai giảm đau, nhỏ dần, bệnh nhân hết sốt, các triệu chứng lui dần và hết hẳn.
Một số trường hợp bệnh nhân bị biểu hiện khác ngoài tuyến mang tai như: viêm tinh hoàn, viêm màng não, viêm não, viêm tụy cấp, viêm buồng trứng, viêm cơ tim, viêm tuyến giáp...
Viêm tinh hoàn thường gặp ở tuổi dậy thì, đôi khi biểu hiện đơn độc mà không kèm theo viêm tuyến mang tai. Bệnh xuất hiện sau sưng tuyến mang tai 1 - 2 tuần, bệnh nhân sốt cao trở lại, tinh hoàn sưng, đau, đỏ, thường ở một bên, kéo dài 4 - 5 ngày thì bệnh nhân hết sốt nhưng sau 2 tuần mới hết sưng tinh hoàn. 
Viêm tinh hoàn có thể gây biến chứng teo tinh hoàn với tỉ lệ 30 - 40%, gây ra giảm sút số lượng tinh trùng hoặc vô sinh nếu bị teo hai bên. Tổn thương thần kinh thường nghĩ đến do virut quai bị nếu nó xuất hiện sau khi sưng tuyến mang tai do quai bị với các dấu hiệu gợi ý như sốt cao, đau đầu, rối loạn ý thức, co giật. Ngoài ra, tùy từng cơ quan mà có biểu hiện khác nhau.
Thuốc chữa
Cho đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chỉ điều trị triệu chứng. Bệnh nhân sau khi có biểu hiện bệnh cần cách ly tối thiểu 2 tuần, nằm nghỉ ngơi tại chỗ, hạn chế đi lại, hạn chế vận động, ăn nhẹ, ăn đồ ăn lỏng trong những ngày đầu. 
Với bệnh nhân viêm tuyến nước bọt: chườm ấm chỗ đau, dùng giảm đau hạ sốt bằng paracetamol, cần thận trọng khi dùng paracetamol trên bệnh nhân bị bệnh gan và dùng liều thuốc theo bác sĩ kê đơn, súc miệng bằng nước muối. 
Có thể dùng kết hợp một số bài thuốc trong dân gian từ hạt đậu xanh tán nhỏ trộn dấm hoặc từ hạt gấc mài ngâm rượu bôi lên chỗ sưng. Nếu bị viêm tinh hoàn: mặc quần lót chật để treo tinh hoàn, chườm nóng, dùng thuốc giảm đau (paracetamol hoặc ibuprofen), dùng corticoid (prednisolon, desamethason...).
Corticoid có tác dụng chống viêm và giảm đau tốt, lúc đầu dùng liều cao sau đó giảm dần liều trong 7-10 ngày, đây là một loại thuốc có nhiều tác dụng phụ trên nhiều hệ cơ quan như gây hội chứng cushing, gây viêm loét dạ dày tá tràng, có thể gây xuất huyết tiêu hóa ở bệnh nhân có bệnh lý dạ dày - tá tràng từ trước, gây loãng xương, ức chế miễn dịch... 
Tuy nhiên, các tác dụng phụ này có thể được kiểm soát nếu việc dùng thuốc thận trọng, tuyệt đối tuân theo y lệnh của bác sĩ. Trong trường hợp bị viêm não, viêm màng não cần dùng corticoid, chăm sóc theo dõi sát diễn biến bệnh nhân để tránh bội nhiễm và cần loại trừ các nguyên nhân viêm não, viêm màng não do căn nguyên khác. 
Bệnh nhân có biểu hiện viêm tụy thường lành tính, tuy nhiên những bệnh nhân này vẫn cần theo dõi sát tình trạng đau bụng, nôn, xét nghiệm máu để tránh bỏ sót biến chứng nặng như nang giả tụy hoặc cần phân biệt với các bệnh ngoại khoa. Với một số biểu hiện viêm khớp, viêm tuyến giáp... không cần điều trị đặc hiệu có thể dùng thuốc giảm đau, chống viêm đơn thuần (paracetamol).
Phòng bệnh
Phòng bệnh bằng các biện pháp: cách ly bệnh nhân, tạo miễn dịch, vệ sinh cá nhân và nhà cửa. Tiêm phòng vắc-xin quai bị tạo kháng thể cao, có miễn dịch bền vững ít nhất 17 năm, vắc-xin phòng bệnh quai bị thường kết hợp với phòng sởi và Rubella (trimovax, MMR). 
Cần tiêm chủng cho các đối tượng sau: trẻ em theo đúng lịch tiêm chủng; tiêm chủng ngay cho trẻ trên 12 tháng tuổi, trẻ vị thành niên và người lớn nếu đã có tiếp xúc với bệnh nhân quai bị nhưng chưa từng bị quai bị và chưa từng được tiêm chủng, những đối tượng này cần tiêm trước 72 giờ sau khi tiếp xúc với bệnh nhân quai bị; người nhiễm HIV. 
Không tiêm vắc-xin ở người dị ứng với nhóm kháng sinh aminoglycosid (gentamycin, amikacin…), dị ứng với trứng gà, bệnh nhân đang dùng các thuốc giảm miễn dịch, bệnh ác tính về máu và khối u, bệnh nhân đang sốt, người có biến chứng trong lần tiêm chủng trước, phụ nữ có thai. Ngoài ra, phòng bệnh thụ động bằng globulin miễn dịch cho một số đối tượng chưa được tiêm vắc-xin.
Hạn chế tiếp xúc với người bệnh, không dùng chung dụng cụ ăn uống, khi tiếp xúc phải mang khẩu trang, vệ sinh nhà cửa sạch sẽ, lau rửa đồ chơi của trẻ, rửa tay bằng xà phòng nhiều lần, che miệng khi ho, hắt hơi sau đó rửa tay ngay.
Theo BS Đào Thị Huế - Sức khỏe và đời sống

Thuốc tim mạch: Không được dùng bừa bãi

Khi bị cảm, ho, viêm họng, tiêu chảy, nôn ói..., nói chung là bệnh nhẹ, bạn có thể dùng thuốc vài ngày sẽ khỏi bệnh. Thế nhưng, với bệnh tim mạch thì khác.

Thuốc để chữa các bệnh tim mạch (gọi tắt là thuốc tim mạch) không thể uống một sớm một chiều trong thời gian ngắn để khỏi bệnh mà cần có quá trình điều trị lâu dài, công phu, với sự thận trọng đúng mực. Thậm chí, nhiều bệnh lý tim mạch đòi hỏi bạn phải dùng thuốc suốt đời, ví dụ như bệnh tăng huyết áp, suy tim...
Thuốc tim mạch được chia thành các nhóm: điều trị suy tim, điều trị tăng huyết áp, điều trị loạn nhịp tim, điều trị cơn đau thắt ngực...
Đối với thuốc tim mạch, cần lưu ý những điều sau:
Không tự ý mua để chữa trị
Một thực tế thường xảy ra là nhiều người thấy mình có vẻ bị bệnh tim mạch giống với một người nào đó nên tự ý mua thuốc như họ để uống mà không hề đi khám. Điều này hết sức nguy hiểm. Cần nhớ rằng việc dùng thuốc là cho từng cá thể và dùng phải hết sức tinh tế, không thể áp dụng một cách máy móc, lấy đơn thuốc người này cho người kia dùng, dùng không đúng sẽ xảy ra những sự cố đáng tiếc.
Tập thể dục với cường độ thích hợp là một trong những biện pháp giúp trái tim khỏe Ảnh: Hoàng Triều
Tập thể dục với cường độ thích hợp là một trong những biện pháp giúp trái tim khỏe Ảnh: Hoàng Triều
Nếu bệnh nhân tự ý mua thuốc uống mà không có sự đánh giá, theo dõi của bác sĩ thì có thể xảy ra một số điều không hay gọi là bị tai biến do thuốc. Ví dụ:
- Một số thuốc lợi tiểu: Nếu sử dụng tùy tiện có thể làm rối loạn điện giải gây vọp bẻ, mỏi cơ, thậm chí rối loạn chuyển hóa mỡ.
- Thuốc trợ tim (digital): Tự ý dùng mà không có sự đánh giá, chỉnh liều của bác sĩ có thể dẫn đến ngộ độc, loạn nhịp tim.
- Thuốc hạ áp: Nếu dùng không đúng cách, quá liều có thể gây tụt huyết áp, dẫn đến nhiều hậu quả không hay.
- Thuốc chống đông dùng trong một số bệnh tim mạch (rung nhĩ, bệnh nhân có bệnh van tim đã được thay van nhân tạo...): Nếu không được bác sĩ theo dõi có thể gây rối loạn đông máu, chảy máu, xuất huyết tiêu hóa, xuất huyết ngoài da, xuất huyết não.
Phải có chỉ định, theo dõi của bác sĩ
Chỉ có bác sĩ mới nắm vững tính năng của thuốc, cũng như qua khám bệnh trực tiếp sẽ lựa chọn thuốc thích hợp và hướng dẫn thực hiện các nguyên tắc dùng. Ví dụ, đối với bệnh tăng huyết áp (THA), sự lựa chọn thuốc trị THA sẽ tùy thuộc vào: yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch, có sự tổn thương các cơ quan (như suy thận, suy tim, dày thất trái...), có kèm bệnh đái tháo đường... Đặc biệt, đối với việc dùng thuốc trị THA, bác sĩ sẽ giúp tuân thủ các nguyên tắc sau:
Trước hết, dùng liều thấp ban đầu và tăng liều dần dần với chỉ 1 loại thuốc. Nếu không hiệu quả, mới kết hợp 2 loại thuốc. Nếu thuốc được chọn đầu tiên có hiệu quả kém và nhiều tác dụng phụ thì đổi nhóm thuốc khác, không cần tăng liều hoặc kết hợp loại thuốc thứ hai.
Không tự ý ngưng thuốc
Nhiều người bị THA, sau một thời gian điều trị, huyết áp trở về bình thường. Họ cho rằng mình đã khỏi bệnh và tự ý ngưng thuốc. Đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm. Khi huyết áp của bạn về bình thường có nghĩa là huyết áp đang được kiểm soát tốt bởi chế độ dùng thuốc. 
Vì vậy, bạn cần điều trị duy trì với liều lượng thích hợp mà không tự ý ngưng dùng. Nếu được, bạn nên tái khám và ngõ ý muốn ngưng thuốc với bác sĩ đang điều trị cho mình. Thông thường, bác sĩ không cho ngưng thuốc mà có thể điều chỉnh chế độ dùng thuốc của bạn. Tự bạn không thể quyết định được loại thuốc, liều lượng và thời gian dùng trong sự điều chỉnh này. 
Chỉ bác sĩ mới có thể điều chỉnh liều thuốc thấp nhất, an toàn nhất và hiệu quả nhất. Phải có chương trình theo dõi, tái khám với bác sĩ tim mạch thì trái tim bạn mới được chăm sóc một cách cẩn thận và hiệu quả nhất.
Không tự ý đổi thuốc
Lấy trường hợp một bệnh tim mạch phổ biến là THA. Thuốc trị THA có nhiều loại (hiện có 7 nhóm thuốc và mỗi nhóm có cả chục loại thuốc) nên vấn đề sử dụng khá phức tạp. Chỉ bác sĩ điều trị mới là người có thẩm quyền chỉ định, hướng dẫn dùng thuốc an toàn và hiệu quả. Đặc biệt, bác sĩ sẽ là người quyết định có nên thay thuốc điều trị bấy lâu nay bằng một thuốc mới hay không. 
Mọi sự thay đổi về dùng thuốc phải hỏi ý kiến của bác sĩ và thay đổi như thế nào là thuộc thẩm quyền của bác sĩ điều trị. Bệnh nhân không được tự ý thay đổi thuốc vì việc làm này rất nguy hiểm, dùng không đúng sẽ bị độc hại do thuốc hoặc bệnh THA nặng hơn đến mức nguy hiểm.
Một số biện pháp khác
Song song với chế độ điều trị dùng thuốc, hầu hết các bệnh nhân tim mạch cần phải thay đổi, điều chỉnh lối sống, chế độ làm việc sao cho bớt stress; nên tập thể dục với cường độ thích hợp, ngưng hút thuốc lá, chế độ ăn giảm muối, giảm chất béo... Nếu bạn ỷ lại vào thuốc tim mạch mà ăn uống thoải mái, không kiêng cữ, có chế độ ăn quá mặn thì thuốc sẽ không đạt hiệu quả như mong muốn.
Tóm lại, một chế độ sinh hoạt, ăn uống đúng mực, một tinh thần lạc quan, một chế độ dùng thuốc và tái khám nghiêm túc sẽ giúp bạn kiểm soát được bệnh tim mạch một cách chủ động và tối ưu nhất. n
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đức - Người lao động

Những tác hại khôn lường khi sử dụng thuốc giảm cân

Để có được vóc dáng thon gọn, nhiều người đã chọn cho mình cách uống thuốc giảm cân. Tuy vậy, việc này có thể gây ra những tác dụng phụ rất nguy hiểm cho sức khỏe.

Bệnh nhân dễ bị nghiện thuốc giảm cân
Thành phần thuốc giảm cân thường có chất chống trầm cảm, lo âu và chất kích thích. Sự kết hợp này dễ dàng khiến bạn trở thành "nô lệ" của loại thuốc này nếu uống nhiều trong thời gian dài.
Những tác hại khôn lường khi sử dụng thuốc giảm cân.Những tác hại khôn lường khi sử dụng thuốc giảm cân.

Thuốc gây chán ăn
Thuốc giảm cân gây chán ăn là loại có chứa amphetamin hoặc các dẫn chất tương tự như phenamin, benzedrine, mirapront N, anorex, isoméride, didrex, tepanil, adifax, pondéral… Khi uống loại thuốc này, các chất trên sẽ có tác động trực tiếp lên hệ thần kinh trung ương làm bạn mất đi cảm giác đói, ăn không ngon, chán ăn, mất ngủ… Kết quả cuối cùng sẽ là giúp bạn giảm cân.
Đây là loại thuốc giảm cân được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Tuy nhiên những tác dụng phụ mà nó gây ra cũng cực nguy hiểm. Nếu chúng ta quá lạm dụng sản phẩm này, nó có thể gây nghiện. 
Khi ngưng dùng, cơ thể của bạn sẽ rơi vào trạng thái rối loạn tâm lý, chán nản, buồn bực… Đặc biệt, đối với những người có tiền sử bị bệnh tim mạch, cao huyết áp, tăng nhãn huyết áp nếu sử dụng còn ây ra nguy cơ mắc chứng suy tim, mù mắt…
Thuốc tăng cường chuyển hóa các chất gây béo
Loại thuốc giảm cân này có chứa nội tiết tố tuyến giáp thyroxin, đây là chất có khả năng làm gia tăng chuyển hóa chất béo ở bên trong các tế bào, từ đó làm giảm đi lượng mỡ tích tụ trong cơ thể. 
Tuy nhiên, loại thuốc này chỉ có tác dụng đối với những người bị béo phì do thiếu lượng thyroxin gây ra. Tác dụng phụ của việc uống thuốc giảm cân này có thể gây ra là làm nguy hại cho tim, làm ức chế chức năng tuyến giáp, gây bệnh bướu cổ…
Thuốc làm no ống tiêu hóa
Đây là loại thuốc giảm cân có chứa các chất sterculia, methylcellulose… Khi sử dụng loại thuốc này, các chất trên sẽ không hấp thu vào máu mà nằm trong lòng ruột, hút nước, trương nở và tạo nên cảm giác đầy bụng khiến chúng ta không cảm thấy đói, nhờ đó mà giảm khẩu phần ăn. 
Tuy nhiên, thuốc làm no ống tiêu hóa gây ra các tác dụng phụ như trướng bụng, đầy hơi. Những người mắc chứng hẹp đường tiêu hóa, chứng to kết tràng có thể bị tắc ruột khi sử dụng loại thuốc này.
Theo Phương Vũ - Gia đình Việt Nam
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons