This is featured post 1 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
This is featured post 2 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
This is featured post 3 title
Replace these every slider sentences with your featured post descriptions.Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these with your own descriptions.
Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015
Tác hại của thuốc nhuận tràng
Chủ Nhật, tháng 5 31, 2015
sống khỏe
No comments
TS.BS Vũ Đức Chung (Trưởng khoa Tiêu hóa, BV Quân đội 354, Hà Nội) cho biết: Nếu đã được gọi là thuốc thì loại nào cũng có mặt tốt và mặt xấu. Nếu dùng đúng cách, nó sẽ trở thành biệt dược cho sức khỏe của bạn. Nếu dùng bừa bãi, nó sẽ trở thành độc dược khiến bạn khốn đốn.
Thuốc nhuận tràng cũng vậy. Nếu bạn dùng chúng không đúng theo chỉ định của thầy thuốc thì có thể dẫn tới hiện tượng tiêu chảy, đau bụng, mất nước quá nhiều dẫn đến suy nhược, thậm chí là tử vong nếu mất nước quá nhiều mà không được tiếp nước kịp thời.
Tự tạo phương thuốc nhuận tràng
Để phòng chống chứng táo bón, BS Vũ Đức Chung khuyên: Sẽ không có loại thuốc nhuận tràng nào sánh được một chế độ ăn uống điều độ và giàu chất xơ thực vật. Đây chính là phương thuốc nhuận tràng tuyệt diệu bạn có thể làm cho chính mình và người thân.
Không quá khó để bạn tìm chất xơ khi nó có rất nhiều trong gạo, ngũ cốc toàn phần, rau các loại và trái cây khô. Nhưng cần lưu ý, khi ăn bạn nên nhai kỹ để nghiền nhỏ thực phẩm và giúp các men tiêu hóa trong dạ dày và ruột được tiết ra đầy đủ.
Ngoài ra, người bị chứng táo bón nên uống nhiều nước, từ 1,5 - 2 lít/ngày và hạn chế dùng các chất kích thích ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa như: trà, cà phê, thuốc lá, nước có ga… Tránh stress, tham gia luyện tập thể dục thể thao đều đặn cũng nằm trong lời khuyến cáo nên làm để chóng táo bón.
Bên cạnh đó bạn cũng nên tập cho mình thói quen massge vùng bụng liên tục theo chiều kim đồng hồ rồi ngược lại chừng 15 phút mỗi ngày. Thói quen này sẽ kích thích các nhu động ruột, giúp việc đẩy phân ra ngoài trở nên dễ dàng hơn.
Cần lưu ý tác hại của thuốc nhuận tràng
BS Vũ Đức Chung đã cảnh báo những tác hại nguy hiểm của thuốc nhuận tràng như sau:
1. Gây lệ thuộc thuốc
Nếu bạn dùng thuốc nhuận tràng sai mục đích, dùng lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến màng nhầy và hoạt động cơ năng của ruột, khiến ruột trở nên chai mòn mất khả năng tự vận động, không chịu co bóp vì đã lệ thuộc quá nhiều vào thuốc. Nhiều người sau thời gian dài dùng thuốc nhuận tràng đã không thể đi ngoài được nếu không có thuốc.
2. Gây rối loạn tiêu hóa, trầm cảm
Loại thuốc này chỉ có tác dụng ngắn hạn, người bị táo bón chỉ nên dùng trong 2 - 3 ngày.
Nếu lạm dụng quá lâu, thuốc sẽ ảnh hưởng không tốt lên màng nhày ruột gây rối loạn tiêu hóa làm cho người bệnh thường xuyên bị tiêu chảy hoặc táo bón, khi ăn sẽ không thấy ngon miệng, khả năng hấp thụ thức ăn kém hơn, người gầy yếu, xanh xao. Bệnh càng diễn ra lâu ngày thì người bệnh càng dễ bị căng thẳng thần kinh và bị trầm cảm.
Theo H.D - Sức khỏe gia đình
Điều chị em cần phải nhớ khi uống thuốc tránh thai khẩn cấp
Chủ Nhật, tháng 5 31, 2015
sống khỏe
No comments
Thuốc tránh thai khẩn cấp là một trong những biện phải tránh thai có hiệu quả cao nếu được dùng đúng theo chỉ dẫn. Đúng như tên gọi, thuốc được dùng trong những trường hợp khẩn cấp, khi các biện pháp tránh thai khác không có hiệu quả hoặc như bạn - quên không dùng biện pháp tránh thai nào.
Tuy nhiên, đây không phải là biện pháp tránh thai được các bác sĩ khuyến khích dùng, nó chỉ nên được dùng trong trường hợp nhỡ nhàng và dùng không quá 2 lần trong 1 tháng vì càng dùng nhiều thì hiệu quả càng giảm. Đặc biệt, khi uống thuốc tránh thai khẩn cấp, chị em cần ghi nhớ một vài điều sau đây thì thuốc mới đạt hiệu quả tránh thai cao:
Thuốc tránh thai khẩn cấp là một trong những biện phải tránh thai có hiệu quả cao nếu được dùng đúng theo chỉ dẫn. Ảnh minh họa
- Tất cả các thuốc tránh thai khẩn cấp (loại 1 viên hay 2 viên) đều cân được uống càng gần thời điểm quan hệ tình dục không được bảo vệ càng tốt.
- Thuốc cũng có tác dụng phụ: Có tới 50% số phụ nữ dùng thuốc tránh thai khẩn cấp bị buồn nôn và nôn. Như vậy, hiệu quả của thuốc sẽ bị giảm, chưa kể các tác dụng phụ khác như kinh nguyệt không đều, rong huyết, đau đầu, chóng mặt...
- Nếu sau khi uống bị nôn thì phải uống ngay liều khác để thay thế. Nếu sau khi uống 2 giờ mới nôn thì không cần uống bù. Nếu bạn uống loại 2 viên thì nhất thiết phải uống đủ 2 liều mới có tác dụng, hiệu quả tránh thai mới cao.
- Không dùng viên tránh thai khẩn cấp khi có thai hoặc bị dị ứng với thuốc tránh thai.
Trong trường hợp của bạn, rất có thể bạn không thích hợp với loại thuốc đó nên liên tục bị nôn sau khi uống. Bạn đã không uống đủ liều nên bạn cần phải theo dõi xem mình có mang thai ngoài ý muốn hay không.
Bên cạnh đó, bạn cần lưu ý để tránh sử dụng lại loại thuốc đó trong lần sau (nếu không may phải dùng đến thuốc thì hãy chọn loại khác). Nếu có dấu hiệu chậm kinh, bạn nên đi khám để được biết nguyên nhân do tác dụng phụ của thuốc hay do có thai.
Bên cạnh đó, bạn cần lưu ý để tránh sử dụng lại loại thuốc đó trong lần sau (nếu không may phải dùng đến thuốc thì hãy chọn loại khác). Nếu có dấu hiệu chậm kinh, bạn nên đi khám để được biết nguyên nhân do tác dụng phụ của thuốc hay do có thai.
Thuốc gì gây viêm gan?
Chủ Nhật, tháng 5 31, 2015
sống khỏe
No comments
Thực tế tổn thương gan do thuốc xảy ra rất đa dạng. y văn thường dùng thuật ngữ "viêm gan do thuốc" để chỉ các trường hợp thuốc sử dụng có ảnh hưởng đến bệnh lý viêm gan.
Gan là một cơ quan nội tạng có vai trò rất quan trọng trong việc chuyển hóa các chất được hấp thu vào cơ thể con người, trong đó có cả các loại thuốc điều trị. Vì vậy, gan rất dễ bị tác động ảnh hưởng xấu của thuốc và thuốc đã trở thành một nguyên nhân quan trọng gây nên bệnh lý về gan.
Cơ chế gây tổn thương gan của thuốc
Bản thân thuốc là chất độc hại đối với gan nhất là khi dùng liều cao thì nguy cơ gây độc xảy ra càng nhiều. Mặc dù lúc khởi đầu dùng thuốc thường không có biểu hiện dị ứng quá mẫn nhưng những lần sau sử dụng lại thuốc với liều lượng tương tự thì gan sẽ bị tổn thương.
Tuy nhiên, khi sử dụng với liều thấp hơn thì gan không bị ảnh hưởng. Một trường hợp minh chứng là khi sử dụng tetracyclin, thuốc có thể làm ức chế tổng hợp chất protein của vi khuẩn; do ty lạp thể tế bào gan và vi khuẩn có nhiều điểm giống nhau nên tetracyclin cũng có khả năng ức chế tổng hợp chất protein của ty lạp thể tế bào gan.
Nếu sử dụng thuốc với liều thông thường sẽ không thấy rõ ảnh hưởng nhưng khi dùng với liều cao hay thì nồng độ thuốc tăng cao trong bào tương của tế bào gan đủ để ức chế sự tổng hợp các protein, gây nên sự thoái hóa mỡ trong tế bào gan dẫn đến tình trạng suy gan.
Trường hợp thuốc ít độc hay không độc nhưng chất chuyển hóa có thể có ảnh hưởng đến gan vì chất chuyển hóa sẽ trực tiếp gây độc cho gan, đặc biệt là khi có thêm các chất thúc đẩy hoạt động của cytochrom P450 có vai trò quan trọng trong chuyển hóa thuốc.
Cytochrom P450 góp phần cấu tạo màng trong ty thể hay mạng lưới nội chất của tế bào gan; nơi chuyển hóa hàng ngàn nội độc tố, ngoại độc tố, thuốc và những phân tử không cần thiết khác có thể có hại cho gan.
Bình thường chất chuyển hóa ít hoặc không độc, không ảnh hưởng trực tiếp đến gan nhưng nếu chúng liên kết với các thành phần của tế bào gan như: axít nucleic, protein, lipid không bão hòa thì có thể làm thay đổi cấu trúc tế bào gan hoặc các hoạt động chức năng tế bào gan dẫn đến tình trạng suy giảm hay hoại tử tế bào gan.
Thực tế có trường hợp biến đổi trở thành hapten dễ gây viêm gan dị ứng. Hapten còn được gọi bán kháng nguyên, đây là một kháng nguyên không toàn năng có trọng lượng phân tử thấp, không có tính sinh miễn dịch nhưng có tính đặc hiệu kháng nguyên; khi hapten được gắn với một chất protein sẽ tạo thành một phức hợp thì phức hợp này có tính sinh miễn dịch; trong thực nghiệm nếu chỉ đưa hapten vào cơ thể thì bản thân hapten không tạo ra đáp ứng nhưng khi được liên kết cộng hợp với protein sẽ tạo ra kháng thể phản ứng ngay cả với hapten và cộng hợp protein đó. Khi sử dụng thuốc lần sau sẽ có sự tái phát gây nguy hiểm.
Gan rất dễ bị tác động ảnh hưởng xấu của thuốc và thuốc đã trở thành một nguyên nhân quan trọng gây nên bệnh lý về gan.
Theo TTƯT.BS Nguyễn Võ Hinh - Sức khỏe và Đời sống
Thuốc chữa sẩn ngứa do côn trùng đốt
Chủ Nhật, tháng 5 31, 2015
sống khỏe
No comments
Khi bị côn trùng đốt thì tại chỗ bị đốt sẽ nổi lên những sẩn tịt. Nếu để ý thấy giữa sẩn có điểm châm kim rớm dịch hay rớm máu, và đặc biệt là ngứa nhiều.
Sau vài ngày do gãi ngứa, các sẩn chợt ra (sẩn chợt) màu đỏ, có khi nhiễm khuẩn có mủ (gọi là sẩn chợt nhiễm khuẩn). Đa phần sẩn chợt sẽ khỏi, một số lâu ngày thành sẩn cục, cộm cứng màu thâm đen, rất ngứa, tồn tại lâu dài, dai dẳng, khó điều trị.
Một số thuốc sau có thể dùng để điều trị sẩn ngứa do côn trùng đốt như:
Cồn iốt: được dùng để chấm vào những sẩn tịt ban đầu sau khi đã được nặn nhẹ máu ra. Tuy nhiên cần lưu ý, thuốc có thể gây kích ứng tại chỗ, dị ứng như viêm da do iốt, đốm xuất huyết (không dùng cho người có tiền sử quá mẫn với iốt). Dùng chế phẩm nhiều lần trên vùng da tổn thương rộng sẽ gây nhiều tác dụng không mong muốn (vị kim loại, tăng tiết nước bọt, đau rát hơn).
Thuốc mỡ để điều trị sẩn ngứa do côn trùng đốt.
Các dung dịch màu (dung dịch xanh metylen 1%, dung dịch tím metin 1%): Dùng để bôi vào các sẩn chợt nhiễm khuẩn. Các thuốc này có tính sát khuẩn tại chỗ để phòng chống bội nhiễm.
Kem, mỡ kháng sinh kết hợp corticoid: Thường được dùng cho các tổn thương viêm, nhiễm trùng, khi tổn thương khô. Không bôi thuốc dạng này khi tổn thương còn đang chảy dịch. Bôi thuốc ngày 2 lần.
Thuốc mỡ salicylic: Đây là loại thuốc có tác dụng làm tróc mạnh lớp sừng da và sát khuẩn nhẹ khi bôi trên da... được dùng bôi vào các sẩn cục. Bôi axit salicylic tại chỗ trên da với lượng vừa đủ lên vùng da cần điều trị, xoa nhẹ, 1 - 3 lần/ngày.
Mặc dù axit salicylat dùng tại chỗ ít được hấp thu hơn nhiều so với uống nhưng vẫn có thể xảy ra phản ứng phụ. Ðể hạn chế sự hấp thu acid salicylic, không nên dùng thời gian dài, nồng độ cao, bôi trên diện rộng hay bôi trên vùng da bị viêm hoặc nứt nẻ. Các tác dụng phụ thường gặp khi bôi thuốc là cảm giác bị châm đốt, kích ứng da nhẹ.
Thuốc chống dị ứng chlopheniramin: Được dùng uống để chống ngứa. Nhưng thuốc có tác dụng an thần từ ngủ gà nhẹ đến ngủ sâu, khô miệng, chóng mặt… nên khi dùng thuốc cần tránh làm việc đòi hỏi sự tỉnh táo như làm việc trên cao, lái xe… Ngoài ra, có thể dùng kem chống ngứa bôi tại chỗ như promethazin. Thuốc có tác dụng làm giảm ngứa, hạn chế phản ứng cào gãi nên giảm viêm nhiễm, giảm lan rộng tổn thương. Bôi thuốc ngày 2 - 3 lần.
Để phòng bệnh ở vùng có côn trùng hoặc đi qua vùng có côn trùng cần mặc quần áo dài che kín, đi giầy tất và xoa dầu Dep chống côn trùng đốt.
Theo Dược sĩ Nguyễn Thị An - Sức khỏe và Đời sống
Dùng nhiều thuốc cùng lúc, làm sao bớt hại?
Chủ Nhật, tháng 5 31, 2015
sống khỏe
No comments
Khi kê đơn thuốc từ hai loại trở lên, người thầy thuốc phải cân nhắc đến sự tương tác giữa các thuốc, làm sao phải có lợi, nếu không thì hại chỉ nhỏ và ít nhất.
Ít khi đi khám bệnh mà thầy thuốc chỉ ghi một loại thuốc trong đơn, ngược lại có đến 3 - 4 loại, thậm chí cả 5 - 6 loại. Lắm lúc người bệnh không đi khám mà tự đến nhà thuốc mua dưới sự hướng dẫn của nhân viên bán thuốc, cũng phải mua 4 - 5 loại thuốc.
Tương tác thuốc sẽ xảy ra khi dùng từ hai thuốc trở lên.
Có một điều ít ai chú ý là cứ hai thứ thuốc vào cơ thể thì đã có tương tác với nhau rồi, khỏi phải cần đến nhiều thứ thuốc. Tương tác có lợi là khi thuốc hỗ trợ nhau tăng cường tác dụng. Tương tác bất lợi là làm giảm tác dụng của nhau, có khi gây ra độc tính.
Nếu tương tác bất lợi ít thì có thể bỏ qua vì phần lợi mà thuốc đem đến quan trọng hơn. Nhưng cũng có những trường hợp quá hại, không thể chấp nhận được, ảnh hưởng đến sức khỏe, khiến bệnh tình trở nên nặng hơn, thậm chí tử vong. Khi đề cập đến phần hại của tương tác, cần quan tâm đến những điều sau:
Sự tương tác làm giảm tác dụng của thuốc
Một thuốc muốn có tác dụng cần phải được hấp thu vào máu. Nếu lượng thuốc được hấp thu ít hay thời gian để thuốc vào đến máu kéo dài thì tác dụng của thuốc sẽ bị giảm đi.
Tại dạ dày, độ acid dịch vị có ảnh hưởng đến sự hấp thu của một số loại thuốc. Vì vậy, các thuốc trung hòa acid dạ dày thường dùng trong các chứng đau do thừa acid dạ dày như hydroxyd aluminum, hydroxyd magnesium hay thuốc ức chế sự bài tiết dịch vị cimetidine, ranitidine, famotidine, nizatidine hay thuốc ức chế bơm proton (kết quả là ức chế bài tiết dịch vị) omeprazole, rabeprazole, pantoprazole; tất cả các thuốc này làm giảm sự hấp thu của những thuốc kháng viêm không steroid (ibuprofen, meloxicam,tenoxicam, piroxicam, diclofenac...) và cả amoxcyclin, tetracyclin.
Những thuốc có khả năng tạo một màng bao phủ niêm mạc đường tiêu hoá như sucralfat, bismuth để trị viêm loét dạ dày hay smecta trị tiêu chảy cũng ngăn cản sự hấp thu của các thuốc dùng chung với nó, vì lớp màng nhầy này vừa có tác dụng bảo vệ niêm mạc nhưng lại cũng ngăn cản thuốc không cho thấm vào các mao mạch trong đường tiêu hóa.
Lại có khi các thuốc uống cùng với nhau xảy ra phản ứng tạo thành phức hay tủa làm sự hấp thu của thuốc bị giảm đi. Như tetracyclin khi uống chung với các thuốc chứa calci hay sắt sẽ làm giảm rõ rệt sự hấp thu của kháng sinh này lẫn thuốc kèm theo. Vì vậy không nên uống tetracyclin với sữa hay uống chung với các thuốc chứa calci, sắt.
Nếu xảy ra sự tương tác bất lợi giữa hai loại thuốc đều cần thiết thì nên uống cách nhau 2 - 3 giờ.
Tác dụng của thuốc bị giảm cũng có khi là do các thuốc dùng chung có tác dụng đối nghịch nhau. Chẳng hạn: acetylcystein là thuốc có tác dụng long đờm, giúp dễ ho khạc để làm thông thoáng đường hô hấp, nếu dùng chung với một thuốc giảm ho dextromethorphan thì bệnh nhân sẽ không giảm ho nữa, như vậy sẽ mất tác dụng của thuốc long đờm. Sự phối hợp này có thể rất nguy hiểm cho trẻ nhỏ vì các bé chưa biết khạc, đờm nhớt sẽ ứ lại không thoát ra được khỏi đường hô hấp, sẽ làm tắc và nhiễm khuẩn nặng hơn.
Ngay cả các loại vitamin, mà đa số mọi người đều nghĩ là bổ cũng có thể làm ảnh hưởng đến tác dụng của các thuốc khác. Nếu dùng liều cao vitamin C có thể làm mất tác dụng của vitamin B12 khi dùng chung. Vitamin B6 làm mất tác dụng của levodopa trong điều trị bệnh Parkinson.
Tương tác làm tăng độc tính của thuốc
Tác dụng phụ của thuốc có thể tăng lên khi dùng chung với một thuốc khác. Chẳng hạn: paracetamol là một thuốc giảm đau hạ sốt rất hay dùng, nhưng độc với gan. Tính độc này tăng lên khi dùng chung với isoniazid.
Vì vậy, bệnh nhân lao khi đang được điều trị với isoniazid thì phải thận trọng khi dùng paracetamol. Các thuốc chống động kinh barbituric, phenytoin cũng làm tăng độc tính ở gan của paracetamol.
Thuốc aspirin do làm giảm sự kết tập tiểu cầu nên khi dùng chung với thuốc chống đông máu warfarin, clopidogrel sẽ làm tăng nguy cơ chảy máu. Các thuốc kháng viêm không steroid có phản ứng phụ là viêm loét dạ dày, nếu phối hợp với nhau sẽ gây xuất huyết tiêu hóa. Khi dùng chung erythromycin với lovastatin sẽ dễ làm tăng nguy cơ tiêu cơ vân.
Tương tác có lợi
Khi dùng các thuốc có chứa sắt, nếu dùng thêm vitamin C sẽ tăng hấp thu sắt. Đang dùng thuốc điều trị đái tháo đường mà dùng thêm sâm thì sẽ làm tăng tác dụng hạ đường máu (vì vậy cần giảm liều thuốc điều trị đái tháo đường).
Sự tương tác thuốc nói chung rất phức tạp. Nhưng trong điều trị vẫn phải cần đến phối hợp thuốc. Do đó, người thầy thuốc sẽ cân nhắc liều dùng sao cho phối hợp thuốc là có lợi hay giảm thiểu tối đa tác dụng phụ. Bệnh nhân không nên tự ý dùng thuốc hay kết hợp thuốc mà phải có chỉ định của thầy thuốc mới được dùng.
Theo BS Ngô Văn Tuấn - Sức khỏe và Đời sống
Kẹo ngậm ho là thuốc gì?
Chủ Nhật, tháng 5 31, 2015
sống khỏe
No comments
Kẹo ngậm ho chính là thuốc viên ngậm dùng trị ho nhưng hình dạng giống viên kẹo ngậm và người ngậm thấy có vị ngọt thơm ngon như kẹo nên nhiều người gọi như thế.
Trước đây ngành dược có bào chế thuốc viên bao đường (nay rất ít dùng dạng thuốc này), khi uống thấy có vị ngọt nên nhiều người nghĩ thuốc viên uống có thể ngậm như ngậm kẹo. Thật ra, chỉ có thuốc viên được ghi rõ là dùng bằng cách ngậm thì mới ngậm chứ các loại thuốc viên khác là không được ngậm.
Có thuốc nếu ngậm, không chỉ làm giảm chất lượng điều trị của thuốc mà còn có thể bị tai biến do thuốc; như: viên nén bao tan ở ruột Aspirin pH8, nếu ngậm thuốc viên bao tan ở ruột sẽ làm hỏng lớp bao, dược chất aspirin phóng thích ở dạ dày, gây hại cho niêm mạc dạ dày.
Thuốc viên ngậm là thuốc người dùng không nuốt mà thuốc được giữ trong khoang miệng hoặc đặt dưới lưỡi và để cho tan nhằm để hoạt chất phóng thích và hấp thu qua niêm mạc miệng, dưới lưỡi để vào máu hoặc cho tác dụng tại chỗ.
Thuốc viên ngậm được bào chế có mùi thơm, vị ngọt nên thích hợp cho việc ngậm cho tan. Đây cũng là dạng thuốc dùng thích hợp trong các trường hợp người bệnh gặp khó khăn trong việc uống thuốc viên mà bị nôn ói, hoặc bị bệnh đường tiêu hóa như bị viêm loét dạ dày tá tràng.
Thuốc viên ngậm có vị ngọt là nhờ có tá dược làm ngọt là đường mía (saccharose) hoặc chất làm ngọt nhân tạo (như aspartam) dành cho người kiêng đường hay người bệnh đái tháo đường.
Kẹo ngậm ho chính là thuốc viên ngậm dùng trị ho nhưng hình dạng giống viên kẹo ngậm và người ngậm thấy có vị ngọt thơm ngon như kẹo nên nhiều người gọi như thế. Tuy nhiên theo thiển ý, không nên gọi là thuốc viên ngậm là kẹo ngậm.
Bởi vì, khi gọi thuốc là kẹo người ta dễ tưởng lầm đó là thứ dùng tùy tiện sao cũng được. Trên thế giới đã có nhiều báo cáo trẻ con nghe thuốc là kẹo (nhiều phụ huynh gọi như thế nghĩ là trẻ sẽ dễ uống thuốc hơn) lén đánh cắp thuốc dùng và bị ngộ độc. Đối với thuốc, không nên dùng từ "kẹo" để gọi mà cứ gọi là thuốc là tốt hơn cả.
Thuốc viên ngậm trị ho thường chứa các hoạt chất giúp giảm ho như: các tinh dầu bạc hà (menthol), tinh dầu tràm (eucalyptol), hoặc chứa dược chất ức chế phản xạ ho như dextromethorphan… Có cả thuốc viên ngậm Đông y như: bổ phế ngậm.
Ta cần biết, ho là triệu chứng thường gặp. Riêng ở trẻ con rất dễ bị ho do dễ bị viêm nhiễm đường hô hấp, dễ bị các bệnh tai mũi họng đưa đến cơ quan thụ cảm ho bị kích thích. Ta cũng cần biết ho là một phản xạ sinh lý có tính bảo vệ cơ thể.
Chính nhờ ho biểu hiện bằng sự thở ra rất mạnh giúp làm sạch đường thở, tống xuất đàm, dịch tiết hoặc vật lạ lọt vào đường hô hấp, giúp nhung mao hô hấp hoạt động tốt. Có một số trường hợp như bị hen phế quản, viêm phế quản cấp, cần ho để tống xuất đàm nhớt mà lại dùng thuốc ức chế phản xạ ho là không có lợi, chỉ có hại.
Riêng cảm lạnh vào mùa mưa dễ khiến người lớn và trẻ bị ho. Một số chuyên gia khuyên chỉ cần giữ ấm, dinh dưỡng đầy đủ chất, uống nước nhiều hơn, đặc biệt là nước cam hoặc nước chanh để tăng sức đề kháng thì có khả năng tự khỏi sau một vài ngày và không cần dùng thuốc. Lúc này cũng có thể dùng thuốc viên ngậm trị ho (chỉ dùng cho người lớn và trẻ tương đối lớn).
Hỏng mắt vì thuốc sốt rét?
Chủ Nhật, tháng 5 31, 2015
sống khỏe
No comments
Các thuốc sốt rét tổng hợp (chloroquin) hay từ thiên nhiên (quinin) đều gây độc cho mắt. Do loại thuốc tổng hợp còn dùng để chữa viêm khớp dạng thấp, luput ban đỏ rải rác... dài hạn hay chữa sán liều khá cao nên độc dễ xảy ra hơn.
Với thuốc tổng hợp: chloroquin
Thuốc có thể gây độc cho mắt theo các mức độ khác nhau:
Tích tụ lipid ở mô lưới: Việc tích tụ lipid ở mô lưới không quan trọng vì sau khi ngừng dùng thuốc, lipid tích tụ này sẽ tan dần.
Rối loạn vận động mắt: Biểu hiện thường gặp là nhìn một thành hai, sa mi mắt trên, mắt điều tiết kém, có khi không điều tiết được. Tuy nhiên, sau khi ngừng thuốc sẽ giảm dần, các vận động mắt được hồi phục đến mức bình thường.
Tổn thương võng mạc: Tổn thương võng mạc ít gặp hơn (khoảng 6% người bệnh) nhưng nguy hiểm hơn vì không hồi phục được sau khi ngừng thuốc.
Tai biến này được ghi nhận năm 1957. Đến năm 1983 mới tính được liều tối đa cho phép dùng mà không bị tai biến là 6,5mg/kg/ngày cho dạng hydroxychloroquin (bd: plaquenil) và 4mg/kg/ngày cho dạng chloroquinsulfat (bd: nivaquin).
Chloroquin là một hợp chất có ái lực đối với biểu mô sắc tố võng mạc. Thuốc hợp với melanin, tích lũy lại ở võng mạc nhiều năm sau khi đã ngừng dùng. Một trong các nguy cơ gây độc cho mắt là dùng lâu dài thuốc trị sốt rét và trị luput ban đỏ. Ở người suy thận suy gan việc đào thải thuốc giảm, sự tích lũy thuốc nhanh và nhiều hơn, dễ gây độc hơn. Khi dùng thuốc cho các đối tượng này cần thận trọng.
Biểu hiện độc cho mắt thường thấy như sau: Lúc đầu thấy một vùng tối trước mắt, gọi là bị " ám điểm trung tâm". Nếu ngừng dùng thuốc ngay thì biểu hiện này sẽ mất đi. Nhưng nếu cứ tiếp tục dùng thuốc thì thị lực ở cả hai mắt đều bị giảm, trong đáy mắt xuất hiện quanh hoàng điểm một vùng vàng rồi sau này trở thành đen sậm, đáy mắt mất sắc tố chung quanh lõm trung tâm hoàng điểm tạo ảnh, gọi là "mắt bò".
Vào giai đoạn cuối, thị lực giảm đi rất nhanh, không thể hồi phục. Người bệnh có thể nhận biết việc giảm thị lực song chỉ có thầy thuốc dùng dụng cụ soi đáy mắt mới xác định được các tai biến ở hoàng điểm. Tai biến xảy ra có khi không có các dấu hiệu báo trước.
Tích tụ lipid ở mô lưới: Việc tích tụ lipid ở mô lưới không quan trọng vì sau khi ngừng dùng thuốc, lipid tích tụ này sẽ tan dần.
Rối loạn vận động mắt: Biểu hiện thường gặp là nhìn một thành hai, sa mi mắt trên, mắt điều tiết kém, có khi không điều tiết được. Tuy nhiên, sau khi ngừng thuốc sẽ giảm dần, các vận động mắt được hồi phục đến mức bình thường.
Tổn thương võng mạc: Tổn thương võng mạc ít gặp hơn (khoảng 6% người bệnh) nhưng nguy hiểm hơn vì không hồi phục được sau khi ngừng thuốc.
Tai biến này được ghi nhận năm 1957. Đến năm 1983 mới tính được liều tối đa cho phép dùng mà không bị tai biến là 6,5mg/kg/ngày cho dạng hydroxychloroquin (bd: plaquenil) và 4mg/kg/ngày cho dạng chloroquinsulfat (bd: nivaquin).
Chloroquin là một hợp chất có ái lực đối với biểu mô sắc tố võng mạc. Thuốc hợp với melanin, tích lũy lại ở võng mạc nhiều năm sau khi đã ngừng dùng. Một trong các nguy cơ gây độc cho mắt là dùng lâu dài thuốc trị sốt rét và trị luput ban đỏ. Ở người suy thận suy gan việc đào thải thuốc giảm, sự tích lũy thuốc nhanh và nhiều hơn, dễ gây độc hơn. Khi dùng thuốc cho các đối tượng này cần thận trọng.
Biểu hiện độc cho mắt thường thấy như sau: Lúc đầu thấy một vùng tối trước mắt, gọi là bị " ám điểm trung tâm". Nếu ngừng dùng thuốc ngay thì biểu hiện này sẽ mất đi. Nhưng nếu cứ tiếp tục dùng thuốc thì thị lực ở cả hai mắt đều bị giảm, trong đáy mắt xuất hiện quanh hoàng điểm một vùng vàng rồi sau này trở thành đen sậm, đáy mắt mất sắc tố chung quanh lõm trung tâm hoàng điểm tạo ảnh, gọi là "mắt bò".
Vào giai đoạn cuối, thị lực giảm đi rất nhanh, không thể hồi phục. Người bệnh có thể nhận biết việc giảm thị lực song chỉ có thầy thuốc dùng dụng cụ soi đáy mắt mới xác định được các tai biến ở hoàng điểm. Tai biến xảy ra có khi không có các dấu hiệu báo trước.
Để tránh tai biến khi dùng chloroquin kéo dài phải khám mắt định kì (nếu dùng liều 6,5mg/kg/ngày thì khám mỗi 1 năm, nếu dùng liều cao hơn 6,5mg/kg/ngày thì khám mỗi 6 tháng). Do độ độc với mắt của nivaquin cao hơn plaquenil nên khi dùng nivaquin phải theo dõi chặt chẽ hơn.
Với thuốc chiết từ thiên nhiên: quinin
Độc cấp tính: Biểu hiện dễ nhận biết là mờ mắt hoặc đổi màu. Không chỉ gặp khi dùng điều trị sốt rét mà còn gặp khi một số người dùng phá thai với liều cao.
Độc mạn tính: Thoái hóa dây thần kinh thị giác (teo gai thị): ở mắt bình thường, dây thần kinh thị giác có màu hồng khi bị ngộ độc sẽ bị bạc trắng, các mạch máu võng mạc co nhỏ lại.
Phù võng mạc: Động mạch trung tâm võng mạc bị tắc, gây phù võng mạc. Võng mạc bị phù trắng như bông. Hoàng điểm có màu đỏ như quả anh đào, các mạch máu võng mạc co nhỏ lại. Do thế, thị lực giảm sút nhanh có khi mù.
Những tai biến này xảy ra khi dùng quinin kéo dài không theo đúng chỉ dẫn của thầy thuốc.
Người bệnh có thể nhận biết thị lực giảm sút nhưng chỉ có thầy thuốc dùng dụng cụ soi đáy mắt mới xác định được teo thần kinh thị giác, phù võng mạc.
Có trường hợp người bệnh có thể nhận biết các biểu hiện khác thường như: không nhận được màu, hay nảy đom đóm mắt, thấy mọi vật xung quanh có màu đỏ hay xanh lục, thị trường bị thu hẹp (giống như nhìn qua một cái ống), quáng gà, bị ảo giác.
Độc mạn tính: Thoái hóa dây thần kinh thị giác (teo gai thị): ở mắt bình thường, dây thần kinh thị giác có màu hồng khi bị ngộ độc sẽ bị bạc trắng, các mạch máu võng mạc co nhỏ lại.
Phù võng mạc: Động mạch trung tâm võng mạc bị tắc, gây phù võng mạc. Võng mạc bị phù trắng như bông. Hoàng điểm có màu đỏ như quả anh đào, các mạch máu võng mạc co nhỏ lại. Do thế, thị lực giảm sút nhanh có khi mù.
Những tai biến này xảy ra khi dùng quinin kéo dài không theo đúng chỉ dẫn của thầy thuốc.
Người bệnh có thể nhận biết thị lực giảm sút nhưng chỉ có thầy thuốc dùng dụng cụ soi đáy mắt mới xác định được teo thần kinh thị giác, phù võng mạc.
Có trường hợp người bệnh có thể nhận biết các biểu hiện khác thường như: không nhận được màu, hay nảy đom đóm mắt, thấy mọi vật xung quanh có màu đỏ hay xanh lục, thị trường bị thu hẹp (giống như nhìn qua một cái ống), quáng gà, bị ảo giác.
Thời gian từ khi có các biểu hiện khác thường đến khi có các tai biến nghiêm trọng ở võng mạc khá dài. Nếu trong quá trình dùng thuốc thấy có biểu hiện khác thường này thì phải ngừng thuốc, nếu không sẽ dẫn đến các tai biến nghiêm trọng (teo thần kinh thị giác, phù võng mạc).
Tuy có nhiều thuốc mới trị sốt rét, thấp khớp dạng thấp, luput ban đỏ, sán... hai thuốc chloroquin, quinin hiện vẫn còn dùng khá phổ biến trong cộng đồng. Cách tránh ngộ độc cho mắt là dùng đúng liều, không dùng kéo dài, khi nhận biết các dấu hiệu bất thường thì cần ngừng thuốc ngay nhằm tránh các diễn biến xấu.
Tuy có nhiều thuốc mới trị sốt rét, thấp khớp dạng thấp, luput ban đỏ, sán... hai thuốc chloroquin, quinin hiện vẫn còn dùng khá phổ biến trong cộng đồng. Cách tránh ngộ độc cho mắt là dùng đúng liều, không dùng kéo dài, khi nhận biết các dấu hiệu bất thường thì cần ngừng thuốc ngay nhằm tránh các diễn biến xấu.
Cách tránh ngộ độc cho mắt là dùng đúng liều, theo đúng chỉ định của thầy thuốc
Theo DS Hà Thủy Phước - Sức khỏe và Đời sống