Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015

Trị mụn: Chuyện tưởng nhỏ mà không nhỏ

Để tránh hậu quả đáng tiếc do dùng sai thuốc trị mụn, tốt nhất bạn nên đến bác sĩ để được hướng dẫn chữa trị trong trường hợp bị mụn nhiều.

Mụn trứng cá là bệnh do nang lông - tuyến bã ở da hoạt động thái quá làm tiết nhiều bã nhờn, trong khi miệng nang lông lại bị bít kín do tăng sừng hóa, chất bã nhờn ứ đọng lại ở lỗ chân lông tạo thành nhân mụn. Khi nhân mụn thành hình, thường có sự phát triển, tăng sinh một loại vi khuẩn có tên Propionibacterium acnes ở lỗ chân lông, gây nên tình trạng viêm đỏ của mụn mủ.
Có thể giảm mụn mà không cần thuốc
Đa số các thanh niên đến tuổi hoặc vừa qua tuổi dậy thì đều nổi mụn trứng cá ở mặt. Nổi mụn ở tuổi dậy thì được xem là hiện tượng tự nhiên do sự phát triển mạnh các nội tiết tố sinh dục trong cơ thể và hiện tượng này có thể kéo dài một thời gian nữa. 
Các bạn trẻ không nên quá lo lắng để rồi dùng quá nhiều loại kem gọi là trị mụn (dùng loại không thích hợp có thể bị mụn nhiều hơn) hoặc dùng loại mỹ phẩm không rõ nguồn gốc hoặc mân mê mụn quá nhiều đưa đến nhiễm trùng sẽ để lại sẹo xấu.
Các bạn trẻ không nên quá lo lắng để rồi dùng quá nhiều loại kem trị mụn Ảnh: Hoàng Triều
Các bạn trẻ không nên quá lo lắng để rồi dùng quá nhiều loại kem trị mụn Ảnh: Hoàng Triều
Có thể làm giảm nổi mụn bằng cách:
- Ăn uống điều độ (nên ăn nhiều rau quả để tăng cường chất bổ dưỡng và tránh táo bón).
- Không lạm dụng những gia vị cay nóng hoặc thức uống kích thích như cà phê, trà...
- Tránh lo lắng phiền muộn (lạc quan thoải mái trong cuộc sống có thể giúp cải thiện rối loạn kể cả chuyện nổi mụn).
- Rửa mặt hằng ngày khoảng 4-5 lần với nước thường hoặc nước pha muối (pha 1 hoặc 2 muỗng cà phê muối ăn vào 1 lít nước), lưu ý tránh sử dụng xà bông không thích hợp với da mặt làm mụn nổi nhiều hơn.
- Luôn đội mũ khi ra nắng.
Khi nào nên dùng thuốc trị mụn?
Nếu thấy nổi mụn nhiều, đặc biệt có dấu hiệu viêm nhiễm, có thể tự mua và dùng loại thuốc bôi cho tác dụng tại chỗ như thuốc bôi ngoài da chứa benzoyl peroxyd hoặc thuốc bôi chứa kháng sinh như erythromycin hoặc clindamycin. 
Các thuốc bôi loại này có tác dụng làm tiêu nhân mụn và diệt vi khuẩn gây viêm nhiễm ở mụn. Khi dùng loại thuốc trị mụn bôi ngoài da, nên bôi thử trên một vùng da nhỏ, mỏng ở mặt trước cẳng tay rồi để yên trong 6-8 giờ, nếu không thấy phản ứng gì đặc biệt mới bôi lên mặt (chỉ bôi chỗ mụn).
Nếu tình trạng mụn nặng, có thể bôi một số thuốc trị mụn khác nhưng các thuốc loại này cần được bác sĩ chuyên khoa da liễu chỉ định và hướng dẫn sử dụng. Đặc biệt, nếu có nhiễm khuẩn nặng (mụn bọc có mủ), bác sĩ phải cho dùng thêm thuốc uống là kháng sinh và phải uống trong thời gian dài, có khi nhiều tháng. Đối với các bạn nữ trẻ chưa lập gia đình mà bị nổi mụn, bác sĩ có thể cho dùng thuốc là nội tiết tố (hormon), đặc biệt là thuốc tránh thai.
Vì sao phải dùng thuốc hormon?
Không chỉ ở các em nam khi đến tuổi dậy thì, cơ quan sinh dục phát triển, bài tiết hormon sinh dục nam là testosteron làm tuyến bã ở da mặt hoạt động quá đáng đưa đến nổi mụn mà trong cơ thể người nữ vẫn có testosteron tuy rất ít, vì thế ở người nữ vẫn có thể bị nổi mụn. 
Đối với người trưởng thành, thậm chí ở tuổi trung niên, vẫn có thể bị mụn do không có sự cân bằng các hormon sinh dục, hormon sinh dục nam hoạt động quá đáng. Trong điều trị mụn có khi phải dùng thuốc hormon sinh dục nữ và chúng ta không ngạc nhiên khi thấy có trường hợp bác sĩ chỉ định dùng thuốc tránh thai cho phụ nữ (tuyệt đối không dùng cho nam giới). 
Bởi lẽ thuốc tránh thai chính là thuốc chứa hormon sinh dục nữ (như thuốc tránh thai phối hợp thông dụng chứa cả estrogen và progesteron là 2 hormon sinh dục nữ) để đối kháng với hormon sinh dục nam.
Isotretinoin: Dùng sai rất nguy hiểm!
Trường hợp bị trứng cá nặng mà các thuốc dùng đã nêu không hiệu quả, bác sĩ có thể cho dùng thuốc isotretinoin (biệt dược nổi tiếng trước đây là Roaccutane). Đây là thuốc nếu dùng sai thì rất nguy hiểm vì có nhiều tác dụng phụ, đặc biệt có thể gây quái thai. Khi bác sĩ quyết định dùng isotretinoin trị mụn cho người nữ trong tuổi còn sinh nở bắt buộc phải có bản thỏa thuận điều trị và chữ ký của người được điều trị. 
Trong đó, người được điều trị cam kết là đã biết rõ thuốc này có thể gây quái thai. Thậm chí ở các nước phương Tây, bác sĩ phải cho thuốc tránh thai kèm theo thuốc isotretinoin để bảo đảm người nữ không có thai trong suốt thời gian trị mụn. Người nữ đang dùng thuốc isotretinoin nếu muốn có thai phải ngưng dùng isotretinoin 1 tháng.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đức - Sức khỏe và Đời sống

Uống vitamin quá liều làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư và bệnh tim

Một nghiên cứu được tiến hành trong 10 năm đã cho kết quả: uống vitamin quá liều làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư và bệnh tim.

Hầu hết mọi người khi bổ sung các loại vitamin đều tin rằng chúng sẽ giúp cải thiện sức khỏe và chống lại bệnh tật. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây đã cho thấy nếu uống vitamin quá liều sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim và ung thư.
TS Tim Byers, thuộc trung tâm Ung thư của trường Đại học Colorado cho biết: “Các bằng chứng cho thấy những người dùng quá liều các loại vitamin có nguy cơ bị ung thư cao hơn”.
Cách đây hai thập kỷ, có nghiên cứu cho biết những người ăn nhiều rau xanh và hoa quả  thường có ít khả năng bị ung thư hơn. Vì vậy Tiến sĩ Bryers đã bắt đầu nghiên cứu xem liệu rằng uống quá nhiều vitamin và khoáng chất có làm giảm nguy cơ nhiễm bệnh hay không.
Ông nói: “Khi chúng tôi bắt đầu thử nghiệm mô hình bổ sung thực phẩm chức năng (dietary supplement) trên động vật đã cho kết quả đầy hứa hẹn. Vì thế, chúng tôi đã chuyển qua thử nghiệm trên người. 
Nghiên cứu được thực hiện trong suốt 10 năm trên hàng ngàn bệnh nhân đang dùng thực phẩm chức năng. Chúng tôi thấy rằng, những viên thuốc bổ sung đó thực sự không giúp ích gì cho sức khỏe của họ. Thực tế, một số người còn bị ung thư nhiều hơn trong khi đang uống vitamin”.
uong-vitamin-qua-lieu-lam-tang-nguy-co-mac-benh-ung-thu-va-benh-timUống quá nhiều vitamin làm tăng khả năng nhiễm các bệnh về tim và ung thư
Một thử nghiệm trong việc khám phá những ảnh hưởng của việc bổ sung beta-keratin (chất sừng) cho thấy uống quá liều sẽ làm tăng 20% nguy cơ bị cả ung thư phổi và bệnh tim.
Ở một thử nghiệm khác cho thấy axit folic, vốn được coi là có tác dụng làm giảm những khối u bướu nhỏ trong ruột già, thực tế lại cho kết quả ngược lại.
TS Bryers nói: “Nghiên cứu này không phải để “đe dọa” mọi người về việc bổ sung vitamin hay khoáng chất. Nếu uống đúng liều, vitamin tổng hợp rất tốt cho bạn. Nhưng nên nhớ không có một sự thay thế nào tốt hơn là những thực phẩm dinh dưỡng. Ăn uống đủ dưỡng chất hàng ngày là cách để có được vitamin và khoáng chất tốt nhất”.
uong-vitamin-qua-lieu-lam-tang-nguy-co-mac-benh-ung-thu-va-benh-timCách bổ sung vitamin và khoáng chất tốt nhất là ăn uống đầy đủ dinh dưỡng hàng ngày
Cuối cùng, ông kết luận: “Chúng tôi khám phá ra rằng uống thêm vitamin và khoáng chất có hại nhiều hơn là có lợi”. Kết quả của nghiên cứu này được trình bày tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội nghiên cứu ung thư Mỹ (American Association for Cancer Research Annual Meeting).
Theo Thanh Giang - Afamily/ Trí thức trẻ

Chối bỏ kháng sinh

Lạm dụng kháng sinh dẫn tới nguy cơ kháng thuốc, khi mắc bệnh sẽ khó điều trị và tốn kém, không ít bà mẹ quay sang “chia tay” với kháng sinh để bé tự “chiến đấu” với bệnh tật.


"Trường phái" không kháng sinh
Trường phái này xuất phát từ quan điểm: uống thuốc, dù đúng liều, đúng bệnh cũng không tốt; "can thiệp" sớm bằng thuốc là tước mất "công ăn việc làm" của hệ miễn dịch; chưa so tài cao thấp với các loại vi trùng gây bệnh đã có "tiếp viện" là kháng sinh thì cơ thể sẽ yếu ớt, dễ nhiễm bệnh. Đáng sợ hơn cả là tác dụng phụ của thuốc. Thuốc nào cũng có tác dụng phụ khiến phần lớn phụ huynh ngần ngại khi cho con uống thuốc.
Chẳng hạn, kháng sinh sẽ gây tai biến cho cơ thể như: dị ứng, nhiễm độc các cơ quan, tiêu chảy. Tác hại thứ hai nghiêm trọng hơn là nếu sử dụng thuốc kháng sinh bừa bãi, sẽ gây hiện tượng vi khuẩn đề kháng với kháng sinh. Thực tế cho thấy, có nhiều thuốc kháng sinh hiệu quả trong điều trị trước kia nay đã bị nhiều loại vi khuẩn "lờn mặt", uống vào cũng như không. Vì vậy, khi nhiễm bệnh, phải mua thuốc kháng sinh thế hệ mới, đắt tiền hơn mới hết bệnh.
Do đó, không ít phụ huynh ngại cho con dùng kháng sinh. Thậm chí có người tự quyết định không dùng để tạo cơ hội cho hệ miễn dịch "đánh đông dẹp bắc"… Tuy nhiên, khi không dùng kháng sinh, không ít phụ huynh đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn, dưới dây là những trường hợp từ thực tế:
Một cô con dâu bị mẹ chồng mắng vì không dùng kháng sinh tâm sự: "Khi con bệnh, tôi cho cháu đến một bác sĩ (BS) có uy tín và được tiếng là không lạm dụng kháng sinh. Bé bị ho, đi khám BS chỉ chẩn đoán viêm mũi, họng rồi cho nước biển về xịt và uống thuốc ho. Kết quả là gần một tháng cháu không khỏi. Khi tái khám, BS kiểm tra họng và tai rồi cho biết: vẫn bình thường. 
Thấy bé không ổn, hay rên la và ho nhiều, tôi đưa bé đi khám BS khác thì hóa ra con đã bị viêm tai giữa mất rồi. Trước đây tôi luôn ủng hộ trường phái hạn chế dùng kháng sinh, để cơ thể tự đề kháng, bây giờ thì tôi không biết làm sao, cái nào đúng, cái nào sai? Đã thế, tôi còn bị mẹ chồng mắng cho một trận là hành con, để con ốm tới ốm lui, người như dải khoai!".
Một người mẹ khác kể: "Con trai tôi ho từ tuần trước, bình thường cứ ho là ông bà bắt uống kháng sinh. Nhưng lần này tôi kiên trì làm theo hướng dẫn của bạn bè: ngâm chân bé vào nước ấm, giữ ấm cổ, rửa mũi bằng nước muối... Không hiểu tôi có làm sai công đoạn nào không mà sang ngày thứ năm bé ho dữ dội. Ông bà ngoại xót cháu, mắng cho tôi một trận. Cuối cùng, tôi đành im lặng đưa con đi BS và bắt đầu cho cháu uống kháng sinh, mặc dù thật lòng không muốn".
Cũng có người coi việc cho trẻ uống nhiều kháng sinh là chuyện chẳng đặng đừng. "Con tôi cứ húng hắng ho, uống siro hôm nay thì mai phổi đã "ran rít, cọt kẹt" mặc dù không sổ mũi, không sốt. Lần nào bệnh cháu cũng phải uống Klacid, Cefimex... Tôi cũng chịu khó xịt rửa mũi cho con hàng ngày bằng nước muối, giữ ấm bàn chân, lau mồ hôi lúc con ngủ nhưng lần nào giữ lâu thì năm tháng cháu phải uống kháng sinh một lần, có khi chỉ sau hai tháng lại uống. Khổ ghê!".
"Trường phái" lạm dụng và tùy tiện ?
Theo BS Cao Xuân Minh - Phòng khám Đa khoa Ngọc Minh (TP.HCM) thì các nước trên thế giới quản lý kháng sinh rất chặt chẽ, các nhà thuốc chỉ bán khi có toa BS. Ở nước ta ngược lại, các nhà thuốc bán đủ loại kháng sinh mà không cần hỏi giấy BS. Sai lầm lớn nhất mà đa phần mắc phải là ra nhà thuốc kể bệnh và dùng thuốc của nhân viên bán hàng. Việc sử dụng thuốc này dẫn đến hàng loạt sai lầm sau:
- Bệnh cảm, cúm, nhiễm virus thông thường chưa cần dùng kháng sinh đã dùng. Đây là cách mà chúng ta "tập trận" cho vi khuẩn bình thường, đến khi chúng đủ "binh mã" gây bệnh thì thuốc đã lờn, uống vào cũng không tác dụng. Hiện đã có những bệnh ngoài cộng đồng khi vào bệnh viện đã đa kháng thuốc, ví dụ như bệnh viêm phổi cộng đồng. Thậm chí có những bệnh không đáp ứng điều trị. Dùng không đúng loại kháng sinh, không đúng liều, không đúng thời gian cũng dẫn đến lờn thuốc.
- Cũng có trường hợp tuy đưa con đi BS điều trị bệnh nhưng mắc sai lầm trong sử dụng thuốc theo toa. Cụ thể, khi thấy bé hết bệnh, phụ huynh thường tự ý ngưng không cho con dùng cho đến hết toa, phần vì ngại con uống nhiều thuốc quá hại gan thận, phần tiết kiệm chi phí. Song, đây là sai lầm cần tránh vì thuốc dùng không đủ liều sẽ gây lờn thuốc. Như vậy, bản thân kháng sinh không có "tội", mà chỉ trở nên nguy hiểm khi bị dùng sai, lạm dụng.
- Khi con ốm, cần theo dõi kỹ bệnh tình. Trợ thủ tốt nhất cho các BS nhi khoa là các bậc cha mẹ. BS chỉ khám bệnh căn cứ vào triệu chứng và lời khai bệnh, nhưng đa số các bé không biết nói hoặc biết cũng không nói được những gì bé đang cảm nhận. Vì thế, cha mẹ cần để ý triệu chứng của bé để cung cấp thông tin giúp BS chẩn bệnh.
Dùng sao cho đúng?
Kháng sinh ra đời đã cứu hàng tỷ sinh mệnh. Do đó điều cần làm không phải là cự tuyệt hay hạn chế hoặc lạm dụng, mà là dùng thế nào cho đúng? Theo BS Đinh Tấn Phương - Trưởng khối Cấp cứu BV Nhi Đồng 1 TPHCM, BS chỉ cho kháng sinh khi có ổ nhiễm trùng. 
Khi BS chẩn đoán sốt siêu vi thường sẽ không kê đơn thuốc có kháng sinh. Nhưng có không ít trường hợp khởi đầu là nhiễm siêu vi, nhưng khi đề kháng của bé giảm trong quá trình bị bệnh lại không được chăm sóc kỹ lưỡng, cộng thêm thường xuyên tiếp xúc với môi trường ô nhiễm nên bị bội nhiễm trên nền nhiễm siêu vi, buộc phải điều trị kháng sinh.
Ngoài sốt siêu vi thông thường, có nhiều loại siêu vi gây bệnh trầm trọng có thể tử vong nếu không phát hiện kịp thời như: sốt xuất huyết, viêm não, tay-chân-miệng…
Vì vậy, cần theo dõi bé thật kỹ. Nếu bé sốt, cho uống thuốc hạ sốt. Nếu nhiệt độ hạ, bé tươi tỉnh, vui chơi ăn uống bình thường, khỏe dần thì tốt; nhưng nếu uống thuốc hạ sốt mà không hạ, bé vẫn li bì, ói mửa, bỏ ăn, bỏ bú, bỏ chơi thì dù bệnh ngày đầu tiên cũng cần đi đến BS chuyên khoa. Ngay cả trường hợp bệnh đường tiêu hóa, sau khi cho uống bù nước mà thấy bé sốt cao lừ đừ thì cần đi cấp cứu vì có những con vi trùng độc lực mạnh, gây nhiễm trùng máu, dẫn đến tử vong
Một số loại thuốc các mẹ cho con uống được như: thuốc bổ, nước muối sinh lý nhỏ mắt nhỏ mũi, thuốc hạ sốt theo cân nặng… nhưng với kháng sinh thì bắt buộc phải có chỉ định của BS, đặc biệt là BS chuyên khoa. Ngay cả việc dùng kháng sinh cũng có quy luật, mỗi nhóm vi khuẩn có kháng sinh điều trị riêng. Khi dùng thuốc không giảm, BS sẽ đổi kháng sinh. Phụ huynh cho bé dùng kháng sinh thì cần dùng đúng theo chỉ định của BS về thời gian, tối thiểu từ năm-bảy ngày.
Rèn kháng thể cho bé
Việc rèn kháng thể cho bé cần thực hiện từ khi bé khỏe mới có tác dụng giữ gìn sức khỏe, chống lại bệnh tật khi dịch bệnh bùng phát.
- Cho bé bú sữa mẹ trong năm đầu đời. Đây là nguồn kháng thể cho con mà không một ai có thể tặng cho bé ngoài mẹ. Tận dụng sữa mẹ ngay từ những giọt đầu tiên sau khi bé chào đời.
- Thức ăn nấu xong, để ấm cho bé dùng ngay, không dùng thức ăn hâm đi hâm lại hoặc mua ở hàng quán vì dễ bị nhiễm trùng đường tiêu hóa, làm kiệt quệ sức đề kháng và sự phát triển của bé. Cho bé dùng thêm sữa chua, giúp bé tiêu hóa tốt.
- Tập cho con những thói quen tốt như ngủ đúng giờ, không thức khuya, vệ sinh răng miệng sau khi ăn và trước khi đi ngủ. Các bé sơ sinh cần được mẹ rơ lưỡi. Khi bé lớn thì tập cho bé súc miệng bằng nước muối sinh lý để tiệt trùng vùng hầu họng.
- Tập thể dục cho bé. Với bé sơ sinh là những bài tập nằm trên giường vươn vai, nắn chân. Bé lớn hơn thì gọi dậy sớm để cùng mẹ nghe nhạc và làm vài động tác lắc lư. Cha mẹ nên tạo điều kiện cho con đến nơi thoáng mát để chạy nhảy, vui chơi…
Cuối cùng là tập cho bé thói quen rửa tay sau khi cầm, nắm bất cứ thứ gì, đặc biệt là ôm ấp thú cưng, sờ tay vịn cầu thang nơi công cộng… Thói quen vệ sinh này sẽ ngăn ngừa cho bé rất nhiều bệnh nguy hiểm.
Theo Phương Nam - Phụ nữ TPHCM

Những loại thuốc giảm đau nguy hiểm với phụ nữ

Thuốc giảm đau, trị cảm cúm có thể ảnh hưởng nghiêm trọng cho các bộ phận cơ thể, thậm chí gây sảy thai. Vì vậy, chị em cần lưu ý khi sử dụng.

Meftal Spa 
Meftal spa là loại thuốc giảm đau, điều trị chứng đau cơ, khớp, răng, đau bụng kinh, đau nửa đầu. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, bênh nhân có thể bị sốc thuốc nếu dùng loại thuốc này  thường xuyên và với số lượng lớn. Ngoài ra, Meftal Spa có thể gây u nang buồng trứng dễ dấn đến ung thư hoặc vô sinh. 

Nimesilide 

Nimesilide là thuốc giảm đâu chỉ định cho các trường hợp đau cấp tính như gãy xương, viêm khớp mãn tính, chấn thương, bệnh lý tai - mũi - họng. Các chuyên gia cảnh báo, người sử dụng thuốc Nimesilide trong thời gian dài có thể mắc các bệnh về thận.
Paracetamol 
Paracetamol là loại thuốc quen thuộc chủ trị chứng đau đầu nhẹ. Tuy nhiên, nó cũng là "lưỡi hái tử thần" với bệnh nhân mẫn cảm với thuốc hoặc dùng quá liều, không đúng chỉ định. Ngoài ra, các bác sĩ cảnh báo, loại thuốc này có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho gan.
Alprazolam
Thuốc Alprazolam có tác dụng ngắn chống lo âu, chống trầm cảm. Các bác sĩ thường kê đơn loại thuốc này để điều trị cho bệnh nhân mắc chứng trạng lo âu, hoảng sợ. Alprazolam tan trong lipid do đó nó dễ dàng tác động đến vào hệ thần kinh trung ương.
Những người thường xuyên uống thuốc Alprazolam có thể gây rối loạn rụng trứng ở phụ nữ. Các chuyên gia y khoa khuyên bạn nên sử dụng các biện pháp thư giãn tinh thần tự nhiên như nghỉ ngơi, giải trí hay ăn một miếng chocolate thay vì dùng thuốc.
Dart Tablets 
Loại thuốc giảm đau đầu, đau cơ thể này có thể có tác dụng ngược đối với bệnh nhân. Mặc dù cơ quan chức năng đã cấm lưu hành nhưng thuốc Dart Tablets vẫn khá phổ biến. Loại thuốc này đặc biệt nguy hiểm với phụ nữ mang thai. Nó có thể dẫn đến sảy thai, chết lưu nếu sử dụng không đúng cách.
Fina Steroid
Fina Steroid có tác dụng tăng cường cơ bắp và kích thích thèm ăn. Những người tập thể hình thường sử dụng loại thuốc này để tăng hiệu quả tập luyện. Tuy nhiên, nó rất độc đối với phụ nữ mang thai. Fine Steroid có thể gây sảy thai và nhiễm độc thận. Loại thuốc này đặc biệt nguy hiểm cho cơ thể phụ nữ trong thời gian mang bầu.
Viên nén vitamin A 
Bác sĩ chỉ định vitamin A cho các trường hợp ra nhiều máu trong thời kỳ kinh nguyệt, nhiễm trùng âm đạo, nấm và hội chứng tiền kinh nguyệt PMS. Phụ nữ thường xuyên sử dụng viên nén vitamin liều cao có thể mắc chứng mệt mỏi, chán ăn, khó chịu trong dạ dày. Nhiều trường hợp có thể bị sảy thai.
Viên nén vitamin C
Vitamin C là loại thuốc chống oxy hóa phổ biến giúp con người duy trì độ cứng của xương, mạch máu và các cơ. Nhiều người thường sử dụng vitamin C khi chữa bệnh cảm cúm, cảm lạnh thông thường. Tuy nhiên, phụ nữ có thai nên rất cẩn trọng khi dùng thuốc này liều cao vì có khả năng gây sảy thai.

Dùng thuốc giảm đau đúng cách

Có tới 35% bệnh nhân dùng thuốc giảm đau lâu ngày bị mắc các bệnh về tâm thần và có nguy cơ gây nghiện thuốc.

Uống thuốc giảm đau theo đơn
Việc bác sĩ kê đơn sử dụng loại thuốc giảm đau phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe cũng như mức độ bị đau của mỗi người và tùy theo độ tuổi. Chính vì vậy, không thể dùng đơn thuốc giảm đau của người này dành cho người khác.
Người Việt ta thường có thói quen mỗi khi bị đau xương khớp là ngay lập tức ra hiệu thuộc tự ý mua thuốc giảm đau về uống không cần có đơn thuốc của bác sĩ.
Chính từ việc uống thuốc bừa bãi không theo đơn này khiến cho nhiều người bị nhờn thuốc hoặc gây ra những tác dụng phụ không đáng có như: táo bón, béo phì, rụng tóc, loạn kinh, loét dạ dày…
Bạn có thể tham khảo cách dùng thuốc giảm đau xương khớp sau:
Đau nhẹ: Dùng một trong các thuốc giảm đau thông dụng nhất là Paracetamol, Aspirin, Ibuprofen... việc chọn lựa tùy theo sự nhạy cảm của từng người, những chống chỉ định và sự tương tác của chúng với những thuốc cũng khác nhau.
Đau vừa: Phối hợp thuốc codein, oxycodon với Paracetamol, thuốc giảm đau, chống viêm hoặc thuốc giảm đau hỗ trợ. Có thể dùng các thuốc giảm đau mạnh hơn như codein hoặc dextropropoxyphen. 
Ngoài ra có thể dùng một số loại cao nấu từ xương các động vật quý như: cao gấu, cao hổ, cao khi, mật gấu để xoa bóp vùng bị nhức mỏi, viêm khớp rất hiệu quả. Tuy nhiên, chú ý không bôi vào vùng vết thương hở.
Đau nặng: Dùng thuốc giảm đau loại mạnh: Morphin, Hydromorphon, Methadon... phối hợp với thuốc chống viêm không chứa chất steroid như Asprin, Indometacin. Thường gặp trong các trường hợp bị chấn thương xương khớp nặng... 
Nhưng chú ý, dùng những loại nàu dễ gây ra hiện tượng quen thuốc, nghiện thuốc, chỉ sử dụng khi có sự chỉ định của thầy thuốc, dùng đúng liều lượng và đúng thời gian quy định.
Chú ý sự tương tác của thuốc
Theo các chuyên gia thì có khá nhiều loại thuốc có thể gây nên hiện tượng tương tác thuốc với loại thuốc giảm đau và ngược lại. Ví dụ như thuốc Aspirin có thể gây ảnh hưởng đến quá trình phát huy tác dụng của thuốc đái tháo đường.
Hoặc bạn không nên ăn một số thức ăn như: tôm cua, uống sữa, nước trà, cà phê ngay sau khi vừa uống thuốc. Điều này, sẽ làm giảm tác dụng của thuốc đối với bệnh, nhiều chất còn gây tác dụng ngược với thuốc sẽ làm cho bạn khó chịu, đầy bụng, thậm chí ngộ độc thuốc.
Nhiều người thường do sợ đắng nên hay tự ý bẻ đôi thuốc ra hoặc chia nhỏ liều để uống cho dễ. Nhưng ít ai biết được rằng hành động này sẽ làm mất tác dụng của thuốc hoặc gây ra những tác dụng phụ ngược lại làm ảnh hưởng tới sức khỏe người bệnh. Chính vì vậy, biện pháp tốt nhất làm bạn nên uống thuốc theo đúng quy định của bác sĩ.
Dùng thuốc quá liều có thể dẫn đến các hậu quả sau:
- Ù tai khó nghe rõ, hai mắt nhìn mờ.
- Chóng mặt, buồn nôn, khó chịu.
- Đau bụng, tiêu chảy nhẹ, hoặc có thể bị chướng bụng khó tiêu.
- Chân tay mềm, người mệt mỏi không muốn ăn.
Theo Thảo Đan - Sức khỏe gia đình

Vitamin D thành "thuốc độc" khi dùng quá liều

Dù cô con gái 8 tháng tuổi ăn, ngủ bình thường nhưng trước thời tiết nóng bức mùa hè chị Mai Hương vẫn quyết định cho con uống bổ sung vitamin A, D, C tăng sức đề kháng.

Thuốc bổ hóa thuốc độc
Sáng nào cũng vậy, trước khi đi làm chị Hương lại chuẩn bị sẵn 3 loại thuốc ra trước bàn rồi dặn bà sau khi cho cháu ăn xong thì uống. Sau một tháng uống thuốc, con chị Hương lười ăn hơn, cân nặng không thay đổi thậm chí suốt ngày nôn, ọe, người lúc nào cũng mềm như dải khoai, quấy khóc liên tục. Cực chẳng đã, chị phải bế con đến bệnh viện. Sau khi các bác sĩ thăm khám, chị Hương mới tá hỏa khi biết nguyên nhân là do con uống quá liều vitamin.
Thuốc bổ - con dao hai lưỡi

BS Lê Thị Hải, Viện Dinh dưỡng quốc gia, cho biết, việc bổ sung vitamin khi trẻ bị thiếu là hết sức cần thiết, nhưng nếu bổ sung một cách bừa bãi không theo chỉ dẫn của bác sĩ, lạm dụng vitamin lại dẫn đến tình trạng mắc một số bệnh do thừa vitamin. 

Trường hợp con chị Thu vẫn còn may, bởi trẻ được đưa đến viện sớm. Bởi, đã có trường hợp đến viện trong tình trạng bị ngộ độc do thừa vitamin A. Trẻ đến viện trong tình trạng nôn liên tục do tăng áp lực nội sọ. Có trẻ ôm đầu khóc, rối loạn thần kinh gần như không làm chủ được mọi hành vi.
Theo bác sĩ Hải việc các phụ huynh có thói quen sử dụng tùy tiện các loại thuốc bổ khá phổ biến hiện nay không những không có lợi cho trẻ mà vô tình làm cho trẻ thiếu vitamin và vi chất dinh dưỡng do tương tác thuốc... Chính điều này làm giảm hấp thụ các vitamin nhóm B; vitamin E liều cao khiến cạn kiệt dự trữ vitamin A trong trẻ.
Bên cạnh đó, việc uống quá nhiều vitamin C liều cao khiến phá hủy vitamin B12; thừa kẽm làm cản trở hấp thu sắt, ảnh hưởng đến sự phát triển hệ cơ xương... Đây chính là nguyên nhân khiến nhiều trẻ thừa vitamin nhưng vẫn còi xương, chậm lớn. 
“Ngoài ra, nếu trẻ bị thừa vitamin B6 có thể dẫn tới viêm đa dây thần kinh, giảm trí nhớ, giảm tiết prolactin. Thừa vitamin D có thể làm trẻ chán ăn, mệt mỏi, nôn, dày màng xương, có trường hợp bị thiểu năng. Bổ sung vitamin D quá nhiều có thể gây suy thận và tử vong rất nhanh…”- BS Hải nói.
Không tùy tiện sử dụng
Các chuyên gia dinh dưỡng cho rằng, nếu trẻ ăn uống cân bằng, hợp lý, đầy đủ và tình trạng bình thường (tức không có dấu hiệu suy dinh dưỡng) thì không cần bổ sung vitamin. Tuy nhiên, khi chế độ ăn không cung cấp đầy đủ thì ngay cả những trẻ khỏe mạnh cũng bị thiếu vitamin cần phải bổ sung.
Bởi các vitamin vốn có trong thực phẩm sẽ bị mất đi hay giảm trầm trọng trong một bữa ăn đầy đủ nhưng chất lượng thực phẩm không đảm bảo (rau bị héo, trái cây không còn tươi nên mất nhiều vitamin C) hoặc bảo quản, chế biến thực phẩm không tốt (gạo càng trắng càng có ít vitamin B1, thức ăn nấu quá kỹ vitamin C sẽ không còn...).
PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, nguyên trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai cho rằng nếu các bậc phụ huynh quyết định cho con bổ sung vitamin và khoáng chất bằng thuốc thì cần chú ý dùng đúng chỉ định của bác sĩ để tránh biến chứng xấu do quá liều. Liều bổ sung bao giờ cũng phải thấp hơn nhu cầu hàng ngày, trừ trường hợp trẻ đang bị mắc bệnh do thiếu các vitamin và khoáng chất đó thì có thể dùng liều cao hơn, theo chỉ dẫn của bác sĩ nhi khoa.
Phụ huynh khi sử dụng vitamin và khoáng chất dưới dạng phối hợp (đa vitamin, đa khoáng chất...) phải phân biệt rõ ràng công thức cho trẻ dưới một tuổi và dưới bốn tuổi. Trong trường hợp trẻ phải dùng thuốc dài ngày, dùng liều cao hoặc dùng các chế phẩm có quá nhiều thành phần vitamin và chất khoáng trong một viên thuốc, phải tham khảo thầy thuốc chuyên khoa nhi. Nên cho trẻ dùng dạng lỏng như dung dịch uống vì vừa dễ uống vừa dễ hấp thu.
Đặc biệt, vitamin không thay thế được thức ăn, vitamin luôn có sẵn trong thực phẩm (rau, quả, ngũ cốc, thịt, cá...). Vì thế, các bậc phụ huynh vẫn phải duy trì một chế độ ăn uống đầy đủ, cân bằng các nhóm thực phẩm.
Để bổ sung an toàn vitamin D cho trẻ lứa tuổi sơ sinh này, FDA - cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm của Hoa Kỳ khuyến nghị:

Đảm bảo rằng em bé của bạn không nhận được hơn 400 đơn vị quốc tế (IU) vitamin D mỗi ngày. Đây là liều khuyến cáo bổ sung vitamin D hàng ngày cho trẻ sơ sinh bú sữa mẹ và một phần bú sữa mẹ của Học viện Nhi khoa Mỹ.

Chỉ sử dụng ống nhỏ giọt đi kèm với sản phẩm. Vì ống nhỏ giọt này được sản xuất đặc biệt để đi kèm cho sản phẩm đó. Không sử dụng một ống nhỏ giọt từ các sản phẩm khác; Cần đảm bảo các ống nhỏ giọt được đánh dấu để các đơn vị đo lường rõ ràng và dễ hiểu. Trường hợp bạn không thể xác định rõ liều lượng vitamin D cung cấp bởi các ống nhỏ giọt, hãy nói chuyện với một chuyên gia chăm sóc sức khỏe trước khi bổ sung cho trẻ sơ sinh.

Theo Quỳnh Anh - Infonet

Thai phụ uống paracetamol, con trai giảm tiết testosterone

Sử dụng paracetamol trong thời gian mang thai có thể khiến hormone testosterone giảm sản sinh ở đứa con trai trong bụng mẹ, gây ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản của con trai sau này.

Thí nghiệm được các nhà khoa học Anh tại ĐH Edinburgh thực hiện trên chuột.

Tylenol, một trong những tên thương mại thông dụng của paracetamolẢnh: Medical Xpress
Tylenol, một trong những tên thương mại thông dụng của paracetamol. Ảnh: Medical Xpress
Trong nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science Translational Medicine, các nhà khoa học đã thí nghiệm tác dụng của paracetamol lên sự tiết testosterone của chuột được cấy ghép mô tinh hoàn người.
Họ cho chuột dùng liều paracetamol hằng ngày - hoặc chỉ trong 24 giờ hoặc suốt 7 ngày. Kết quả cho thấy paracetamol không gây ảnh hưởng đến sự tiết testosterone sau 24 giờ dùng thuốc.
Tuy nhiên, testosterone giảm sản sinh 45% sau 7 ngày dùng paracetamol. Từ kết quả nói trên, nhóm nghiên cứu khuyến cáo nếu cần thiết, thai phụ nên dùng liều lượng thấp nhất và trong thời gian ngắn nhất có thể để hạ sốt và giảm đau nhằm tránh gây ảnh hưởng xấu lên thai nhi.
Testosterone được tiết ra từ tinh hoàn, là hormone thiết yếu cho sức khỏe nam giới. Giới khoa học nghĩ rằng testosterone ở bào thai giảm sản sinh có thể liên quan đến nguy cơ tăng khả năng vô sinh, tinh hoàn ẩn, thậm chí mắc bệnh ung thư tinh hoàn về sau này.
Theo Trúc Lâm - Người lao động
 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons