Hiển thị các bài đăng có nhãn thuốc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thuốc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 10 tháng 9, 2015

Một số thuốc gây nhiễm mỡ gan

Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng nhiễm mỡ ở gan. Thông thường hơn 90% các trường hợp gan nhiễm mỡ diễn ra âm thầm, mạn tính và trong thời gian dài.

Tuy nhiên, các trường hợp gan nhiễm mỡ cấp tính thì lại tiến triển nhanh và nguy cơ gây tử vong cao. Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng gan nhiễm mỡ cả cấp tính và mạn tính là do sử dụng thuốc. Vậy thuốc nào có nguy cơ gây ra bệnh lý này?
Tetracycline: Tetracycline dùng qua dạng uống có thể gây ra thâm nhiễm mỡ dạng bọng nhỏ, thường không để lại hậu quả về lâm sàng. Sự xuất hiện và mức độ của thoái hóa mỡ có mối liên hệ chặt chẽ với liều dùng; cần chú ý trong khi dùng tetracycline đường tĩnh mạch ở phụ nữ có thai có nguy cơ cao gây suy gan và tử vong.
Bệnh nhân cần tuân thủ chỉ định điều trị của bác sĩ, tránh tự ý dùng thuốc.
Bệnh nhân cần tuân thủ chỉ định điều trị của bác sĩ, tránh tự ý dùng thuốc.
Valproic acid: Thuốc chống co giật acid valproic có thể gây bất thường ở gan sau dùng thuốc 2 - 4 tháng.
Amiodarone: Việc sử dụng chất này thường liên quan đến sự tăng nồng độ aminotransferase trong huyết thanh. Trị liệu lâu dài có thể gây ra thâm nhiễm mỡ dạng bọng lớn ở gan và những biến đổi bệnh học tương tự trong viêm gan do rượu.
Glucocorticoids: Glucocorticoid dùng liều cao có thể gây ra gan nhiễm mỡ. Tác động này phần lớn xuất hiện ở trẻ em. Nguyên nhân chính gây ra gan nhiễm mỡ là do tăng giải phóng acid béo từ các mô mỡ. Gan nhiễm mỡ có thể hồi phục khi ngưng glucocorticoid.
Ngoài ra còn rất nhiều thuốc khác có thể gây nhiễm mỡ ở gan như methotrexat (thuốc ức chế miễn dịch dùng trong điều trị ung thư), estrogen (thường dùng trong ngừa thai), perhexilin (thuốc trị cơn đau thắt ngực).
Do đó, khi bệnh nhân buộc phải dùng một trong các loại thuốc nêu ở trên, cần phải tuân thủ theo điều trị của bác sĩ và phải được theo dõi chức năng gan định kỳ.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thuốc chế ngự cơn đau dạ dày

Đau dạ dày và đau nói chung là triệu chứng thường gặp và gây nhiều phiền toái, khó chịu cho người bệnh. Để chế ngự các cơn đau, giải pháp được lựa chọn đầu tiên là dùng thuốc giảm đau.

Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, phần lớn những người sử dụng các chế phẩm giảm đau không những sử dụng sai phương pháp mà còn không để ý đến những tác dụng phụ của các loại thuốc này, trong đó hay gặp nhất là những biến chứng ở đường tiêu hóa như viêm dạ dày, loét dạ dày và đặc biệt là chảy máu dạ dày.
Có những loại thuốc giảm đau nào?
Thuốc giảm đau được chia làm 3 loại:
Thuốc giảm đau loại morphin: nhóm thuốc này có chung một đặc tính là gây nghiện, vì vậy đều thuộc "bảng A, gây nghiện", không kê đơn quá 7 ngày.
Thuốc giảm đau không phải morphin: paracetamol và thuốc chống viêm không steroid. Thông thường, nhóm thuốc này được sử dụng trong các trường hợp sau:
Các triệu chứng đau và sốt thông thường: Các triệu chứng sốt và đau trong cảm cúm, phụ khoa, tiết niệu, thần kinh, tai mũi họng, sau phẫu thuật...
Thuốc chế ngự cơn đau dạ dày
Khi bị viêm loét dạ dày cần đi khám bác sĩ chuyên khoa và dùng thuốc theo hướng dẫn.
Các bệnh viêm cấp và mạn tính: thấp khớp cấp, viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp cùng chậu...
Dự phòng huyết khối và tắc mạch trong các bệnh tăng huyết áp; hẹp van 2 lá, viêm tĩnh mạch, giãn tĩnh mạch...
Ngoài ra, các thuốc thuộc nhóm này còn đang được nghiên cứu để dự phòng và điều trị Alzheimer, polip đại tràng, ung thư đại - trực tràng, ung thư tuyến liền liệt...
Thuốc giảm đau hỗ trợ: là những thuốc có tác dụng làm tăng hiệu quả giảm đau hoặc giảm nhẹ tác dụng không mong muốn của các thuốc trên. Các thuốc này đặc biệt hiệu quả đối với đau do nguyên nhân thần kinh. Hay sử dụng là các thuốc chống trầm cảm và thuốc chống động kinh.
Những tác dụng phụ khi dùng thuốc giảm đau
Viêm loét, xuất huyết đường tiêu hóa: Đây là tác dụng phụ rất hay gặp, nhất là khi sử dụng các thuốc giảm đau, chống viêm non-steroid. Trên lâm sàng, hiện nay nhóm thuốc này có thể được coi là nhóm thuốc được sử dụng phổ biến và nhiều nhất do rất nhiều tác dụng tối ưu của chúng, tuy nhiên bên cạnh các tác dụng có lợi thì nhóm thuốc này cũng có rất nhiều tác dụng không mong muốn, thậm chí cả các tác dụng phụ có thể gây nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân.
Tác dụng phụ xuất hiện cả khi dùng đường uống hoặc đường tiêm. Sở dĩ tác dụng phụ này hay gặp nhất, một mặt do thuốc gây tổn thương trực tiếp niêm mạc dạ dày, mặt khác nó làm giảm quá trình sản xuất chất nhày tạo điều kiện cho acid và pepsin của dịch vị gây tổn thương niêm mạc. Biểu hiện của tác dụng phụ rất khác nhau: cảm giác đầy bụng, nóng rát vùng thượng vị, viêm loét dạ dày tá tràng; chảy máu, thủng dạ dày, hành tá tràng.
Các thuốc giảm đau nguy cơ cao gây chảy máu đường tiêu hóa
Ibuprofen: có trong thành phần của nhiều loại thuốc giảm đau như alaxan, antidol và thường được kết hợp với paracetamol (thuộc nhóm thuốc giảm đau, hạ sốt) có thể giảm cơn đau nhanh chóng do ức chế sự tổng hợp hay phóng thích prostaglandin. 
Tuy nhiên, cần chú ý đến tác dụng không mong muốn của thuốc gây ra. Hay gặp nhất là tác dụng phụ về đường tiêu hóa. Có tới 5-15% người bệnh dùng ibuprofen gặp hiện tượng: trướng bụng, đau bụng, buồn nôn, nôn, nặng hơn là loét dạ dày tiến triển, chảy máu dạ dày, ruột...
Aspirin: đây là thuốc hay dùng nhất trong nhóm dẫn xuất của acid salicylic. Ngoài tác dụng hạ sốt và giảm đau, chống viêm còn có tác dụng chống kết tập tiểu cầu, vì vậy thuốc làm giảm quá trình đông máu. Aspirin có tác dụng giảm đau tốt nên được nhiều người tín nhiệm để uống khi bị sốt cao, nhức đầu, đau răng, đau mình mẩy, thấp khớp cấp và mạn. 
Tuy nhiên, đây cũng là thuốc nguy cơ rất cao gây viêm loét dạ dày tá tràng, chảy máu đường tiêu hóa. Lạm dụng thuốc có thể gây xuất huyết dạ dày, thậm chí thủng dạ dày rất nguy hiểm. Thuốc hiện nay hay dùng là dạng aspirin pH8 (viên bao tan ở ruột) để giảm tác dụng kích ứng ở dạ dày. 
Cần chú ý các dạng thuốc phối hợp như viên APC, asca, aspirin sủi bọt, thuốc tiêm aspegic vẫn có phản ứng có hại gây viêm loét đường tiêu hóa nên cần phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc điều trị để tránh các phản ứng có hại của thuốc (ADR) nguy hiểm.
Indomethacin: hay dùng để điều trị đau lưng, viêm dây thần kinh, viêm xương khớp, hư khớp, thấp khớp mạn tính do có tác dụng chống viêm, giảm đau tốt. Người cao tuổi bị bệnh mạn tính về khớp hay được kê đơn nên cũng dễ bị các phản ứng có hại do dùng thuốc kéo dài không đúng cách. ADR nguy hiểm nhất của thuốc này là gây viêm loét dạ dày - tá tràng, ruột, rối loạn đông máu.
Diclofenac (voltaren, diclofen): là thuốc giảm đau, chống viêm dung nạp tốt nên hay dùng trong các chứng thấp khớp, thoái hóa và viêm hư khớp, thoái hóa cột sống, viêm nhiều khớp, đau lưng, đau thần kinh hông. Đây cũng là một trong những thuốc gây loét dạ dày - ruột - tá tràng khá nguy hiểm do nhiều người lạm dụng trong điều trị đau.
Các dẫn xuất của nhóm oxicam: thường dùng là meloxicam; pirocicam; tenocicam, các thuốc này hiện nay cũng thường được dùng trong điều trị viêm xương khớp, thoái hóa khớp, viêm cột sống cứng khớp. Tuy phản ứng có hại gây loét và xuất huyết đường tiêu hóa ít gặp hơn nhưng vẫn là nhóm thuốc có nguy cơ cao gây chảy máu đường tiêu hóa nếu bị lạm dụng, dùng liều cao kéo dài.
Tác dụng không mong muốn khác
Bên cạnh tác dụng phụ gây viêm loét chảy máu đường tiêu hóa còn có thể gặp rất nhiều tác dụng không mong muốn khác như nghiện thuốc, gãy xương (với nhóm giảm đau gây nghiện), tổn thương gan nặng (khi dùng quá liều paracetamol), tổn thương thận (khi dùng paracetamol và/ hoặc thuốc giảm đau non-steroid).
Nguyên tắc sử dụng thuốc giảm đau
Thuốc giảm đau chỉ điều trị triệu chứng, thuốc có thể che lấp các dấu hiệu của bệnh trong khi bệnh vẫn tiến triển nên phải hết sức cân nhắc khi sử dụng thuốc giảm đau. Khi lựa chọn thuốc, cần chú ý đến cường độ và bản chất của đau. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo nên uống thuốc theo bậc thang giảm đau:
Bậc 1 (đau nhẹ): dùng thuốc giảm đau không phải opioid như paracetamol, thuốc chống viêm không phải steroid. Dùng một trong các thuốc giảm đau thông dụng nhất là paracetamol, aspirin, ibuprofen... Việc chọn lựa tùy theo sự nhạy cảm của từng người, những chống chỉ định khác nhau và sự tương tác của chúng với những thuốc khác.
Bậc 2 (đau vừa): phối hợp thuốc loại opioid yếu (codein, oxycodon) với paracetamol, thuốc giảm đau, chống viêm không steroid hoặc thuốc giảm đau hỗ trợ. Có thể dùng các thuốc giảm đau mạnh hơn như codein hoặc dextropropoxyphen.
Bậc 3 (đau nặng): dùng thuốc giảm đau loại opioid mạnh: morphin, hydromorphon, methadon... phối hợp với thuốc chống viêm không steroid. Thường gặp trong các trường hợp đau do ung thư, do bỏng nặng, hoặc chấn thương nặng... thì phải dùng đến morphin và các dẫn chất của nó. Vì dễ gây ra hiện tượng quen thuốc, nghiện thuốc, chỉ sử dụng khi có sự chỉ định của thầy thuốc, dùng đúng liều lượng và đúng thời gian ấn định.
Để tránh những rối loạn về tiêu hóa, nên uống thuốc vào lúc no và uống với một cốc nước (khoảng 200 - 250ml). Cần đặc biệt chú ý đây là loại thuốc thường dùng để điều trị đau cấp tính, chỉ nên dùng trong thời gian ngắn mà không nên kéo dài. Không nên tự ý dùng thuốc này nếu không có chỉ định. Nếu bị khó chịu ở dạ dày, nên uống thuốc cùng với thức ăn hoặc ngay sau ăn.



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thứ Tư, 9 tháng 9, 2015

Uống thực phẩm chức năng kết hợp với thuốc: Coi chừng mất mạng!

Cục Quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ cảnh báo, việc uống vitamin bổ sung hoặc thực phẩm chức năng kết hợp với các loại thuốc khác có thể gây nguy hiểm cho người sử dụng.

Cục Quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ (FDA) cho biết, thực phẩm chức năngcó thể làm thay đổi sự hấp thu và chuyển hóa của các loại thuốc kê theo đơn hoặc không theo đơn. 
"Một số loai thực phẩm chức năng có thể làm tăng tác dụng của thuốc. Tuy nhiên, một số khác lại có thể gây phản tác dụng của thuốc”, Robert Mozersky, nhân viên y tế tại FDA, giải thích trong một thông cáo báo chí . 
Thực phẩm chức năng dùng kết hợp với thuốc rất dễ gây nguy hiểm cho người sử dụngThực phẩm chức năng dùng kết hợp với thuốc rất dễ gây nguy hiểm cho người sử dụng. Ảnh minh họa
Thực tế cho thấy, loại chất bổ sung St. John Wort có thể làm hạn chế tác dụng của thuốc tránh thai, FDA cho biết. Ngoài ra, cả hai thảo dược bổ sung ginkgo biloba và vitamin E có thể làm mỏng lượng máu trong cơ thể. Việc kết hợp này có thể làm làm mỏng lượng máu trong cơ thể hoặc aspirin dễ làm tăng hiện tượng chảy máu trong, thậm chí là đột quỵ, báo cáo cho biết. 
Các loại thực phẩm chức năng được sử dụng khá phổ biến tại Mỹ. Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh và cuộc Khảo sát dinh dưỡng và Sức khỏe Quốc gia 2005 - 2008 phát hiện thấy rằng, khoảng 72 triệu người Mỹ vừa dùng thuốc theo đơn của bác sĩ vừa uống các loại thực phẩm chức năng. 
Mặc dù nhiều người cho rằng, sử dụng thực phẩm chức năng sẽ bổ sung lượng dinh dưỡng phù hợp cho cơ thể, nhưng FDA cho biết sản phẩm này không thể thay thế cho chế độ ăn lành mạnh, giàu dinh dưỡng. 
Mặt khác, nhiều sản phẩm được gắn mác “tự nhiên” hoặc thảo dược cũng chưa chắc đã hoàn toàn vô hại. “Tự nhiên không có nghĩa là an toàn”. Điều này đặc biệt đúng đối với trẻ em, ông Mozersky cho biết thêm.
"Các bậc cha mẹ nên lưu ý, quá trình trao đổi chất của trẻ em ở các lứa tuổi khác nhau cũng rất khác biệt. Vì vậy, việc sử dụng thuốc lẫn với thực phẩm chức năng rất dễ gây hại cho trẻ”, ông Mozersky giải thích. 
Ngoài ra, những người có dự định sẽ thực hiện phẫu thuật cũng nên tham khảo ý kiến bác sĩ về tất cả các loại thực phẩm chức năng mà họ sử dụng. 
Đây là việc làm cần thiết nhằm hạn chế tối đa những rủi ro nghiêm trọng cho người bệnh liên quan đến nhịp tim, huyết áp hoặc nguy cơ chảy máu, FDA khuyến cáo. Bên cạnh đó, phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú cũng nên hỏi bác sĩ về các loại thực phẩm chức năng  mà họ sử dụng. 
"Điểm mấu chốt của vấn đề ở đây là trước khi sử dụng thực phẩm chức năng hoặc dùng thuốc theo toa hay không theo toa thì vẫn cần có sự tư vấn của chuyên gia y tế để đảm bảo an toàn cho chính người tiêu dùng”, ông Mozersky khẳng định.  


NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ
Gọi cho chúng tôi 0902233317

Thứ Ba, 8 tháng 9, 2015

Dùng nước muối sinh lý để rửa mũi hàng ngày được không?

Nhiều người có thói quen rửa mũi hằng ngày bằng nước muối sinh lý. Song khi mũi hoàn toàn trong trạng thái bình thường thì không nên sử dụng nước muối thường xuyên để rửa mũi.

Rửa mũi bằng nước muối sinh lý chỉ nên khi bạn vừa đi qua chỗ bụi bặm
Mũi là cửa ngõ đầu tiên của cơ quan hô hấp, tiếp xúc với rất nhiều bụi bẩn, các hóa chất độc hại và các yếu tố gây bệnh. Khi bị viêm nhiễm, dùng nước muối sinh lý để làm sạch lớp mủ trước khi sử dụng thuốc để thuốc tác dụng trực tiếp vào lớp biểu mô của niêm mạc mũi và phát huy vai trò chữa bệnh.

Nước muối sinh lý (natri clorid) hay nước muối được pha chế với tỷ lệ 0,9%, tức 1 lít nước với 9 gam muối tinh khiết, là dung dịch đẳng trương có áp suất thẩm thấu xấp xỉ với dịch trong cơ thể người. 
Nước muối sinh lý thường được dùng để cung cấp và bổ sung nước cũng như chất điện giải, dùng để rửa mắt, mũi, súc miệng, thích hợp cho mọi lứa tuổi kể cả trẻ em. Nước muối sinh lý giúp giảm viêm, rửa sạch chất nhầy, các chất gây dị ứng, làm đường thở thông thoáng, hít thở dễ dàng hơn.

Nhưng khi mũi hoàn toàn trong trạng thái bình thường thì không nên sử dụng nước muối thường xuyên để rửa mũi. 
Vì việc sử dụng thường xuyên nước muối sinh lý để làm sạch mũi sẽ vô tình làm mất đi lớp thảm nhầy bảo vệ mũi vốn có, mất đi chức năng bảo vệ mũi của lớp thảm này và gây tổn thương niêm mạc mũi, vì thế mũi lại hay bị viêm hơn. Có thể sử dụng nước muối sinh lý một lần mỗi tuần, đặc biệt là khi làm việc hoặc đi lại ở những vùng nhiều bụi bẩn. 

Thứ Hai, 7 tháng 9, 2015

Những loại thuốc gây "hỏng" thận

Có rất nhiều thuốc có thể làm hại thận cấp tính hoặc mạn tính. Nguy hiểm ở chỗ là nhiều khi thuốc làm hại thận từ từ, không dễ gì phát hiện từ lúc đầu và đến khi phát hiện thì thận đã bị thuốc làm suy ở mức độ rất nặng, thậm chí phải chạy thận nhân tạo.
Thông thường để phát hiện thận bị suy, người ta làm xét nghiệm đo creatinin máu. Nhiều thuốc chỉ mới ảnh hưởng nhẹ đến chức năng thận đã làm tăng creatinin máu, nhưng có nhiều thuốc gây hại thận dần dần mà chẳng có triệu chứng gì, đến khi làm tăng creatinin máu thì đã làm thận suy rất nặng.
Ảnh minh họaThuốc gây hại thận. Ảnh minh họa.
Các thuốc gây hại thận :

Thuốc kháng sinh:
- Aminoglycosid như neomycin, gentamycin, amikacin, tobramycin, streptomycin là nguyên nhân hàng đầu gây creatinin máu tăng, dấu hiệu quan trọng của suy thận.
- Cephalosporin thế hệ 1 như cefadroxyl, cefalexin, cefalotin, cefazolin gây nhiễm độc ống thận.
- Polypeptid như polymixin, colistin có độc tính cao với thận.
- Quinolon: Các fluoroquinolon như ofloxacin, ciprofloxacin, norfloxacin đều gây tăng creatinin máu. Khi sử dụng cần dựa vào mức lọc cầu thận để chọn liều.
- Amphotericin B là thuốc kháng nấm tác động lên lipid ở màng tế bào biểu mô ống thận gây độc thận, nhiễm toan ống thận, đái tháo nhạt do thận.
- Ức chế men chuyển (captopril, ednyt, renitec…) và kháng thụ thể AT1 (aprovel, micardis, cozaar…) gây tăng creatinin máu. Chống chỉ định trong hẹp động mạch thận.
Thuốc hóa trị liệu chống ung thư:
- Cisplatin gây suy thận cấp và hạ magnesi máu.
- Methotrexat gây kết tủa, tắc lòng ống thận.
- Sulfamid gây kết tủa các tinh thể trong lòng ống thận.

Thuốc cản quang iod hóa trị 2, hóa trị 3 (urographin, telebrex…) gây sốc phản vệ, tắc mạch vì gây độc trực tiếp lên nhu mô thận hoặc co động mạch thận.
Thuốc ức chế miễn dịch: Cyclosporin A, azathioprin, mycophenolat mofetil… cần chỉ định đúng, theo dõi cẩn thận.
Thuốc giảm đau, thuốc kháng viêm không steroid:
-Indometacin, phenylbutazon, naproxen gây viêm kẽ thận mạn.
-Paracetamol ngoài suy gan có thể gây hoại tử ống thận cấp, suy thận cấp.
Thuốc điều trị bệnh tâm thần Lithium.
Người bệnh đã có tiền sử suy thận thì tuyệt đối không dùng các thuốc độc cho thận khi có thuốc khác thay thế. Ví dụ như: không dùng các aminoglycosid, amphotericin, cisplatin, mesalazin, các NSAID, penicilamin và vancomycin… là các thuốc hại thận rất mạnh.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đức, ngoài gây hại thận và chức năng thận, nhiều thuốc gây những rối loạn liên quan gián tiếp đến thận. Một số thuốc trực tiếp gây giữ nước và do đó có thể gây nặng hơn các biến chứng về tim mạch ở người bị suy thận, như: carbenoxolon, indomethacin. 
Ở người bệnh suy tim sung huyết, việc tưới máu thận phụ thuộc vào lượng prostaglandin được sản xuất tại thận, dùng thuốc NSAID sẽ ức chế tác dụng tại chỗ của prostaglandin đối với thận gây giảm dòng máu qua thận, giữ nước và làm xấu thêm tình trạng suy tim. 
Dùng digoxin ở người suy thận nặng sẽ làm tăng canxi huyết và/hoặc giảm kali huyết. Dùng các thuốc lợi tiểu giữ kali như: amilorid, spironolacton có thể gây tăng kali huyết nặng ở người suy thận. 
Dùng thuốc kháng tiết cholin như: atropin, scopolamin có thể gây rối loạn chức năng bàng quang và đái không tự chủ đối với người có chức năng thận bình thường. Dùng acetazolamid, vitamin D liều cao, vitamin C liều cao dễ gây đọng tạo sỏi thận - tiết niệu.
Thuốc hại thận ở đây còn có thể hiểu là thuốc có thể làm thay đổi kết quả xét nghiệm chức năng thận, như: có thuốc gây dương tính giả xét nghiệm độ đục nước tiểu (turbidimetric test): tolbutamid, kháng sinh penicillin, cephalosporin (liều cao), sulfisoxazol...; có thuốc làm tăng creatinin máu do cạnh tranh bài tiết ở niệu quản: triamteren, amilorid, trimethoprim, cimetidin, hoặc làm tăng creatinin máu trong xét nghiệm theo phương pháp Jaffe: vitamin C, kháng sinh cephalosporin.
Doluôn luôn có nguy cơ "thuốc hại thận", nên phải xem việc dùng thuốc là rất hệ trọng. Chỉ dùng thuốc khi thật sự cần thiết và có sự hiểu biết tối thiểu về các dùng, liều lượng, tính năng, tác dụng phụ có hại của thuốc (trong đó có tác dụng hại thận). 
Nếu có gì nghi ngờ về bệnh của mình thì cách tốt nhất đến bác sĩ khám để có cách xử trí đúng đắn, không được tự ý dùng thuốc bừa bãi, tốt nhất nên dùng thuốc theo sự chỉ định và hướng dẫn của thầy thuốc.

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons